Khám phá | |
---|---|
Khám phá bởi | Hermann Mayer Salomon Goldschmidt |
Ngày phát hiện | 9 tháng 9 năm 1857 |
Tên định danh | |
(56) Melete | |
Phiên âm | /ˈmɛlɪtiː/[1] |
Đặt tên theo | Melete |
A857 RB | |
Vành đai chính | |
Tính từ | Meletean /mɛlɪˈtiːən/ |
Đặc trưng quỹ đạo | |
Kỷ nguyên 31 tháng 12 năm 2006 (JD 2.454.100,.5) | |
Điểm viễn nhật | 480,683 Gm (3,213 AU) |
Điểm cận nhật | 295,717 Gm (1,977 AU) |
388,200 Gm (2,595 AU) | |
Độ lệch tâm | 0,238 |
1526,839 ngày (4,18 năm) | |
267,781° | |
Độ nghiêng quỹ đạo | 8,072° |
193,478° | |
103,648° | |
Đặc trưng vật lý | |
Kích thước | 113,2 km[2] |
Khối lượng | (4,61 ± 0,00) × 1018 kg[3] |
Mật độ trung bình | 6,00 ± 1,31 g/cm³[3] |
18,1 giờ[2] | |
0,065 [2][4] | |
P[2] | |
8,31 [2] | |
Melete /ˈmɛlɪtiː/ (định danh hành tinh vi hình: 56 Melete) là một tiểu hành tinh lớn và tối ở vành đai chính. Nó là tiểu hành tinh kiểu P bất thường mà thành phần cấu tạo dường như gồm hợp chất hữu cơ giàu silicat, cacbon và silicat khan và có thể có băng (nước đá) ở bên trong. Tiểu hành tinh này quay quanh Mặt Trời với chu kỳ quỹ đạo 4,18 năm.
Melete do Hermann M. S. Goldschmidt phát hiện ngày 9 tháng 9 năm 1857 từ ban công của ông ấy ở Paris. Quỹ đạo của Melete được tính toán bởi E. Schubert, người đã tên nó theo Melete, nữ thần bảo trợ việc trầm tư mặc tưởng trong thần thoại Hy Lạp.[5] Ban đầu Melete bị nhầm lẫn với 41 Daphne trước khi nó được xác nhận là không có trong lần quan sát thứ hai vào ngày 27 tháng 8 năm 1871.[6] Năm 1861, độ sáng của Melete được nhà thiên văn học người Đức Friedrich Tietjen chỉ ra là khác nhau.[7]
Cho đến nay, đã có 2 lần tiểu hành tinh này che khuất hai ngôi sao được quan sát thấy trong năm 1997 và 2002.