Anh Việt (1927 – 2008) là một nhạc sĩ tiền chiến có sáng tác từ trước năm 1945. Ông cùng với Nguyễn Văn Đông được xem là hai nhạc sĩ có cấp bậc cao nhất trong quân đội Việt Nam Cộng hòa.[1][2]
Ông tên thật là Trần Văn Trọng, sinh năm 1927 tại Rạch Giá, Kiên Giang, xuất thân trong một gia đình công chức, song thân sành cổ nhạc và làm thơ.
Ông bắt đầu viết nhạc khá sớm, từ những năm đầu của thập niên 1940. Lúc bấy giờ truyền hình chưa có và hệ thống phát thanh còn thô sơ, giới hạn nơi từng vùng một, tuy nhiên nhạc của Anh Việt cũng đã được phổ biến sâu rộng qua các đĩa 33 vòng (tours), máy hát quay tay, chạy vài lần lại phải thay kim.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tị nạn tại California, được nhà thờ Saratoga Federated bảo lãnh, mời dạy ở trường Naval Post Graduate tại Monterey. Sau này ông mở Chợ Mekong cung cấp cho đồng hương những thực phẩm mang hương vị quê nhà. Đây là cửa hàng tạp hóa và hàng ăn đầu tiên của người Việt Nam tại địa phương.
Ông qua đời ngày 14 tháng 3 năm 2008, thọ 81 tuổi.
Tổng thư ký Hội Ái Hữu Sĩ quan trừ bị Khóa 1 Thủ Đức - Nam Định
Chủ tịch sáng lập Hội Chuyên viên Kế hoạch và Phát triển (1971)
Chủ tịch Tổng hội Bóng Rổ Quân đội (1964)
Chủ tịch Tổng cục Lam Cầu Việt Nam (1972)
Trưởng ban nhạc Cung Thương, Hương Thời Gian, Hương Xưa, Quê Hương, Tổ Quốc trên Đài Phát Thanh Quân đội, Đài Phát Thanh Quốc gia và Đài Vô tuyến Truyền hình Việt Nam (1965)
Cố vấn Hội Bảo vệ Văn hóa Dân tộc
Chủ nhiệm kiêm bút tạp chí "Khởi Hành" (1969), diễn đàn của Hội Văn Nghệ sĩ Quân đội tập trung nhiều văn nghệ sĩ quân đội tên tuổi thuộc các bộ môn văn học nghệ thuật.[4][5] Nay tại hải ngoại tạp chí "Khởi Hành" được nhà thơ Viên Linh tiếp tục với sự chấp thuận của Anh Việt.
Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tạp chí Ái Hữu Cựu Sinh viên Sĩ Quan Trừ Bị khóa 1 Thủ Đức - Nam Định (1966)
Chủ bút hai tạp chí quân đội: Thông tin Quân cụ (1965), Ái hữu Thủ Đức (1966)
Bài Tự do được chọn làm nhạc hiệu Đài phát thanh Kháng chiến Nam Bộ, đồng thời cũng là bài hát chính của Liên đoàn Thanh niên Liên Việt. Sau 1954, bài Chiều trong rừng thẫm được Đài phát thanh Pháp Á chọn làm nhạc hiệu nhưng đổi tên thành Nhạc thanh bình với lời ca mới.[7]
Giai đoạn phục vụ cho Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa 1951-1975
Thơ ngây (1951)
Chiến ca (1951)
Cô em xóm lúa (1953)
Em chờ (1953)
Cô Tây Trinh đồng (1953)
Gặp gỡ (1954)
Hững hờ (1954)
Say trăng (1954)
Quân cụ hành khúc (1956)
Tình quê nối lại nhịp cầu (1956)
Mây thu (1957)
Mưa đêm (1957)
Ý nhạc ngày xuân (1957)
Màu áo thiên thanh (1958)
Rồi ngàn sau (1965)
Hương thời gian (1966)
Dạ khúc (1967)
Sao không nói (1967)
Ra khơi (1968)
Nhảy dù hành khúc (1968)
Tâm tư xóm nhó (1969)
Đà Lạt mưa bay (1970)
Dạ khúc số 2 (1971)
Tiếng ru vào đời (1973)
Giai đoạn lưu vong sau 1975
Ngày tôi xa Sài Gòn (1975)
Đừng khóc nữa em ơi (1975)
Xuân viễn xứ (1975)
Giọt sương đêm (1978)
Tôi sẽ về quê hương (1985)
Hè về đâu đây (1985)
Từ chiều đó (1986)
Ngày xưa yêu nhau (1986)
Giọt buồn (1987)
Một thời dễ thương (1990)
Ngoài ra từ năm 1993 cho đến 1996, nhạc sĩ Anh Việt đã thực hiện được một cuốn sách Nhạc thiền mang tên "Những giọt không" và hai cuốn CD Nhạc thiền với nhan đề: "Hoa mặt trời" và "Trường ca Avril". Phần lớn đều phổ nhạc từ thơ của Thiền Sư Nhất Hạnh.