Aspar Aswin

Aspar Aswin
Thống đốc Tây Kalimantan
Nhiệm kỳ
12 tháng 1 năm 1993 – 12 tháng 1 năm 2003
Tiền nhiệmParjoko Suryokusumo
Kế nhiệmUsman Ja'far
Phó Thống đốc Bali
Nhiệm kỳ
2 tháng 9 năm 1989 – 12 tháng 1 năm 1993
Tiền nhiệmI Dewa Gde Oka
Kế nhiệmAhim Abdurahim
Thông tin cá nhân
Sinh(1940-04-13)13 tháng 4 năm 1940
Samarinda, Đông Ấn Hà Lan
Mất19 tháng 12 năm 2007(2007-12-19) (67 tuổi)
Pontianak, Tây Kalimantan, Indonesia
Phục vụ trong quân đội
ThuộcIndonesia
Phục vụLục quân Indonesia
Cấp bậcThiếu tướng

Aspar Aswin (13 tháng 4 năm 1940 – 19 tháng 12 năm 2007) là một chính trị gia và sĩ quan quân đội người Indonesia, ông phục vụ hai nhiệm kỳ Thống đốc Tây Kalimantan từ năm 1993 đến 2003 và từng là Phó Thống đốc Bali. Nhiệm kỳ thống đốc thứ hai của ông diễn ra trong thời kỳ đầu cải cách, thời kỳ chứng kiến ​​những căng thẳng sắc tộc nghiêm trọng ở Tây Kalimantan và những nỗ lực nhằm loại bỏ ông khỏi quyền lực.

Đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Aswin sinh ra ở Samarinda vào ngày 13 tháng 4 năm 1940, ông là con thứ năm trong số chín anh chị em. Sau khi tốt nghiệp trung học ông nộp đơn vào một số trường đại học, trong khi chờ phản hồi, ông nộp đơn và được tuyển vào Học viện Quân sự Indonesia, ông tốt nghiệp năm 1963.[1]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Lục quân Indonesia, Aswin lần đầu được bổ nhiệm vai trò chỉ huy trung đội ở Quân khu Siliwangi [en], cho đến khi ông tái bổ nhiệm đến Kostrad vào năm 1971. Năm 1973, ông bắt đầu phục vụ trong Trung đoàn Huấn luyện Khu vực, từng bước thăng cấp cho đến khi trở thành chỉ huy trung đoàn ở Quân khu Udayana [en] vào năm 1985.[1] Aswin được bổ nhiệm làm đại biểu Hội nghị Hiệp thương Nhân dân (MPR) đại diện cho Tây Kalimantan vào năm 1987, nhưng ông rời hội nghị vào ngày 16 tháng 11 năm 1989. Thời điểm này, ông mang quân hàm thượng tá.[2] Trước khi rời khỏi MPR, ông tuyên thệ nhậm chức Phó Thống đốc Bali ngày 2 tháng 9 năm 1989.[3] Ông thăng cấp chuẩn tướng ngày 11 tháng 10 năm 1991.[4]

Ông được bầu là thống đốc Tây Kalimantan, tuyên thệ nhậm chức vào ngày 12 tháng 1 năm 1993. Ông tái đắc cử nhiệm kỳ 1998–2003, và nhậm chức nhiệm kỳ thứ hai vào ngày 12 tháng 1 năm 1998.[5] Ông thăng quân hàm thiếu tướng trong nhiệm kỳ đầu tiên vào ngày 8 tháng 4 năm 1994.[6] Trong nhiệm kỳ thứ hai, tỉnh Tây Kalimantan nhận thấy ​​sự gia tăng về số huyện, với các huyện BengkayangLandak được tách ra vào năm 1999. Aswin trước đó đã viết vào năm 1998 là tỉnh Tây Kalimantan cần được chia thành mười bốn huyện, so với sáu huyện vào thời điểm đó.[7]

Trong cuộc bạo loạn Sambas năm 1999, chính quyền tỉnh dưới thời Aswin đã thành lập một trung tâm tị nạn dành cho người tị nạn Madura, phân bổ khoảng 12.500 ha để tái định cư lâu dài cho người Madura phải di dời.[8] Các cuộc bạo loạn diễn ra cùng với biến động chính trị quốc gia sau sự sụp đổ của Tổng thống Suharto, trong thời kỳ đó diễn ra các cuộc biểu tình thường lệ của các sinh viên ở thủ phủ Pontianak của tỉnh kêu gọi Aswin từ chức, vì ông được coi là người đại diện cho chế độ Orde Baru [en].[9] Vào năm 2000, một sinh viên bị sát hại trong một cuộc biểu tình tương tự, gây ra làn sóng lên án và khiến căng thẳng chính trị leo thang. Đến tháng 10, chính quyền trung ương hướng đến việc cách chức Aswin. Tuy nhiên, vào ngày 25 tháng 10, một cuộc bạo loạn lớn đã diễn ra giữa người Mã Lai và người Madura ở Pontianak, nỗ lực buộc tội Aswin ngay lập tức bị hoãn lại.[10] Cuối cùng, Aswin giữ chức vị thống đốc cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ thứ hai.[9]

Sau khi nhiệm kỳ kết thúc, Aswin trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Lương tâm Nhân dân.[11]

Qua đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Aswin qua đời vào sáng ngày 19 tháng 12 năm 2007, sau khi đột ngột ngã quỵ tại nhà vài giờ trước đó. Trước khi qua đời, ông công tác từ Jakarta trước khi tiếp tục đến huyện Ketapang để giải quyết công việc của đảng Hanura, nhiều người thân với Aswin suy đoán cái chết của ông là do kiệt sức. Theo yêu cầu của Aswin trước khi qua đời, thi hài ông an táng tại huyện Temanggung.[11]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Pemimpin pemerintahan Indonesia era otonomi: profil gubernur & bupati (bằng tiếng Indonesia). IIP Press. 2002. tr. 6–11. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  2. ^ Buku Kenangan Anggota Dewan Perwakilan Rakyat Republik Indonesia 1987-1992 (PDF) (bằng tiếng Indonesia). People's Representative Council. 1992. tr. 58–59. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  3. ^ Mimbar kekaryaan ABRI (bằng tiếng Indonesia). Ministry of Defense. 1989. tr. 62. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  4. ^ Mimbar kekaryaan ABRI (bằng tiếng Indonesia). Ministry of Defense. 1991. tr. 59–60. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  5. ^ Mengenal Propinsi Kalimantan Barat (bằng tiếng Indonesia). Biro Hubungan Masyarakat, Setwilda Tingkat I Kalimantan Barat. 1997. tr. 7. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  6. ^ Mimbar kekaryaan ABRI (bằng tiếng Indonesia). Ministry of Defense. 1993. tr. 119. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  7. ^ Tanasaldy, Taufiq (2014). Regime Change and Ethnic Politics in Indonesia: Dayak Politics of West Kalimantan (bằng tiếng Anh). BRILL. tr. 275–276. ISBN 978-90-04-25348-3. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  8. ^ “Pulau Padangtikar dan Tebangkacang Lokasi Pengungsi Sambas”. Kompas (bằng tiếng Indonesia). 21 tháng 4 năm 1999. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2022.
  9. ^ a b Erb, Maribeth; Faucher, Carol; Sulistiyanto, Priyambudi (11 tháng 1 năm 2013). Regionalism in Post-Suharto Indonesia (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 188–194. ISBN 978-1-134-26380-6. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  10. ^ Davidson, Jamie Seth (2008). From Rebellion to Riots: Collective Violence on Indonesian Borneo (bằng tiếng Anh). Univ of Wisconsin Press. tr. 157–160. ISBN 978-0-299-22584-1. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  11. ^ a b “Jenazah Aspar Aswin Dimakamkan di Temanggung”. Antara News (bằng tiếng Indonesia). 19 tháng 12 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2022.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Review sách] Tàn ngày để lại: Còn lại gì sau một quá khứ huy hoàng đã mất
[Review sách] Tàn ngày để lại: Còn lại gì sau một quá khứ huy hoàng đã mất
Trong cuộc phỏng vấn với bà Sara Danius - thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy điển, bà nói về giải thưởng Nobel Văn học dành cho Kazuo
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Trái ngược với Tử quỷ tộc [Goblin] (Quỷ nhỏ), đây là chủng tộc mạnh mẽ nhất trong Đại sâm lâm Jura
So sánh Hutao và Childe - Genshin Impact
So sánh Hutao và Childe - Genshin Impact
Bài viết có thể rất dài, nhưng phân tích chi tiết, ở đây tôi muốn so sánh 𝐠𝐢𝐚́ 𝐭𝐫𝐢̣ của 2 nhân vật mang lại thay vì tập trung vào sức mạnh của chúng
Sự hình thành Teyvat dưới thời của vị thần đầu tiên và vị thần thứ hai
Sự hình thành Teyvat dưới thời của vị thần đầu tiên và vị thần thứ hai
Tất cả những thông tin mà ta đã biết về The Primordial One - Vị Đầu Tiên và The Second Who Came - Vị Thứ 2