Blender (phần mềm)

Blender
Tác giả gốcTon Roosendaal
Nhà phát triểnBlender Foundation
Phiên bản ổn định
4.4.3[1] Sửa đổi tại Wikidata / 29 tháng 4 năm 2025
Kho mã nguồn
Viết bằngC, C++Python
Hệ điều hànhAmigaOS4, FreeBSD, GNU/Linux, MorphOS, Mac OS XMicrosoft Windows
Thể loạiPhần mềm đồ họa 3D
Giấy phépGPL
Websitehttp://www.blender.org

Blender là một phần mềm đồ họa 3D miễn phí và nguồn mở, được sử dụng để làm phim hoạt hình, kỹ xảo, ảnh nghệ thuật, mẫu in 3D, phần mềm tương tác 3D và Video game. Các tính năng của Blender bao gồm tạo mẫu 3D, UV unwrapping, áp vân bề mặt, mô phỏng khói, chất lỏng, hạt và chuyển động cơ thể, điêu khắc, hoạt họa, phối hợp chuyển động, camera tracking, rendering và chỉnh sửa video.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Blender đã được công ty Hà Lan NeoGeo bắt đầu phát triển như một ứng dụng nội bộ, và dựa trên dấu thời gian của những file mã nguồn đầu tiên, ngày 2 tháng 1 năm 1994 được xem là ngày sinh nhật của Blender.[2] Phiên bản 1.00 được ra mắt vào tháng 1 năm 1995,[3] với người thiết kế đứng đầu là lập trình viên và người sở hữu công ty Ton Roosendaal, người trước đó từng viết một chương trình dò tia tên Traces cho Amiga vào năm 1989. Cái tên "Blender" được lấy cảm hứng từ một bài hát của ban nhạc Yello, từ album Baby mà NeoGeo đã sử dụng trong Showreel.[4]

Ngày 1 tháng 1 năm 1998, Blender được cho ra mắt công khai trên mạng là phần mềm miễn phí của SGI. Công ty NeoGeo sau đó bị giải thể và các hợp đồng của nó được sở hữu lại bởi công ty khác. Sau đó, Ton Roosendaal sáng lập Not a Number Technologies (NaN) vào tháng 6 năm 1998 để tiếp tục phát triển và phát hành chương trình này. Chương trình này đã được phát hành dưới dạng shareware đến khi NaN phá sản năm 2002. Lúc đó cũng có nghĩa là việc phát triển Blender bị hoãn.

Vào tháng 5 năm 2002, Roosendaal sáng lập tổ chức phi lợi nhuận Blender Foundation với mục đích là để tìm đường tiếp tục phát triển và quảng bá Blender như một phần mềm nguồn mở. Ngày 18 tháng 7 năm 2002, Roosendaal khởi xướng chiến dịch "Free Blender" để tìm nguồn tài trợ, với mục đích là làm Blender trở thành nguồn mở theo các điều khoản của GNU General Public License với giá 100.000 Euro (tương đương 100.670 đô la Mỹ cùng thời). Ngày 7 tháng 9 năm 2002, số tiền trên đã được thu thập đủ và mã nguồn của Blender được công khai. Hiện tại, Blender là một phần mềm miễn phí mã nguồn mở và đang phát triển nhanh chóng bởi cộng đồng, cộng thêm 15 lập trình viên được thuê bởi Blender Institute.

Mô hình 3D Suzanne

Vào khoảng tháng 2 năm 2002, công ty đang phát triển Blender là NaN rõ ràng không ổn định và phải giải thể vào tháng 3 năm đó. Tuy vậy, họ đã đưa ra thêm một phiên bản nữa là Blender 2.25, với mô hình 3D của đầu con tinh tinh (tuy trong phần mềm được gọi là "monkey", tức "khỉ"). Mô hình đó được tạo bởi Willem-Paul van Overbruggen (SLiD3), cũng là người đặt tên nó là Suzanne theo con đười ươi trong bộ phim Jay and Silent Bob Strike Back.

Suzanne là mô hình 3D được Blender cung cấp với cùng mục đích thử nghiệm như những mô hình thông dụng hơn. Là một mô hình với chỉ 500 mặt, Suzanne có sẵn trong Blender và được dùng để nhanh chóng thử nghiệm với các chức năng khác trong phần mềm.

Tính năng

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Công cụ tạo ra bộ khung hình một cách nhanh chóng
  • Hỗ trợ giao diện cho các script Python
  • Hoạt hình với công cụ tạo ra biến dạng, mô phỏng dòng nước,...
  • Từ phiên bản 2.76 có giao diện tiếng Việt.
  • Hỗ trợ OSL (Ngôn Ngữ Tô Bóng Mở) của Công ty Sony

Geometry Nodes[5]

[sửa | sửa mã nguồn]
Blender geometry nodes

[5]Geometry Nodes không phải là một công cụ đơn lẻ mà là một hệ thống làm việc dựa trên node (node-based workspace). Mục đích chính của Geometry Nodes là cho phép người dùng tạo, điều khiển và biến đổi hình học (geometry) theo quy trình (procedurally). Thay vì chỉnh sửa từng điểm (vertex), cạnh (edge) hay mặt (face) một cách thủ công, người dùng có thể xây dựng một chuỗi thao tác thông qua việc kết nối các node chức năng. Điều này giúp dễ dàng thay đổi, tùy biến và tạo ra các kết quả phức tạp mà không cần lặp lại các bước thủ công. Geometry Nodes mở ra nhiều khả năng sáng tạo và tối ưu hóa quy trình làm việc trong Blender, đặc biệt trong các lĩnh vực sau:

  • Phân tán đối tượng (Scattering): Geometry Nodes giúp rải hàng ngàn đối tượng như cây cối, đá, cỏ trên một bề mặt một cách tự nhiên và có kiểm soát, sử dụng các yếu tố như mật độ, texture, hoặc thuộc tính bề mặt để phân bổ hợp lý.
  • Mô hình hóa quy trình (Procedural Modeling): Hệ thống node giúp tạo ra các mô hình có cấu trúc phức tạp hoặc có thể tùy chỉnh linh hoạt, chẳng hạn như kiến trúc, đường phố, hoặc các kết cấu lặp lại. Người dùng chỉ cần thay đổi tham số đầu vào thay vì thao tác thủ công trên từng đối tượng.
  • Hiệu ứng hình ảnh và chuyển động (Visual Effects & Motion Graphics): Geometry Nodes được ứng dụng rộng rãi để tạo ra các hiệu ứng động như tăng trưởng, biến đổi hình dạng, hoặc các chuyển động phức tạp dựa trên quy tắc toán học, mang lại sự linh hoạt và sáng tạo trong thiết kế đồ họa động.

Geometry Nodes là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhất của Blender trong những năm gần đây. Từ khi được giới thiệu vào phiên bản Blender 2.92, hệ thống này liên tục được cải tiến, đặc biệt từ Blender 3.0 với sự ra đời của Fields, giúp đơn giản hóa cách người dùng tương tác và thiết kế hệ thống node.

Sự phát triển của Geometry Nodes đánh dấu một bước chuyển đổi quan trọng trong quy trình làm việc 3D, hướng tới tính linh hoạt và phi phá hủy (non-destructive), mở ra khả năng sáng tạo mới và nâng cao hiệu suất làm việc cho các nghệ sĩ 3D. Nó không chỉ là một công cụ mạnh mẽ mà còn là một xu hướng quan trọng trong tương lai của Blender, thay thế và cải tiến nhiều phương pháp truyền thống trong mô hình hóa và hiệu ứng.

Yêu cầu phần cứng

[sửa | sửa mã nguồn]

So với các ứng dụng 3D khác thì Blender yêu cầu phần cứng thấp hơn nhiều lần. Tuy nhiên, cấu hình mạnh là điều cần thiết để có thể làm việc với những hiệu ứng phức tạp.

Yêu cầu phần cứng của Blender
Phần cứng Tối thiểu Khuyến cáo Tiêu chuẩn sản xuất
Vi xử lý 2 GHz, Dual Core Quad Core Dual 8-Core
Bộ nhớ RAM 4 GB RAM 16 GB 32 GB hoặc hơn
Card đồ họa Card hỗ trợ OpenGL 3.3 với 1 GB Video RAM Card hỗ trợ OpenGL 4 hoặc cao hơn với 4 GB Video RAM Card hỗ trợ OpenGL 4 hoặc cao hơn với 12 GB Video RAM
Màn hình 1280×768 pixels, màu 24-bit 1920×1080 pixels, màu 24-bit 2 màn hình 1920×1080 pixels, màu 24-bit hoặc HDR với màu 30-bit
Thiết bị nhập Chuột hoặc trackpad Chuột 3 nút Chuột 3 nút và bảng vẽ

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Blender 4.4.3". ngày 29 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2025.
  2. ^ "How Blender started, twenty years ago…".
  3. ^ "Blender's History". Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2019.
  4. ^ "NeoGeo | Blender".
  5. ^ a b "Geometry Nodes - Blender 4.4 Manual". docs.blender.org. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2025.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Đại hiền triết Ratna Taisei: Tao Fa - Jigokuraku
Đại hiền triết Ratna Taisei: Tao Fa - Jigokuraku
Tao Fa (Đào Hoa Pháp, bính âm: Táo Huā) là một nhân vật phản diện chính của Thiên đường địa ngục: Jigokuraku. Cô ấy là thành viên của Lord Tensen và là người cai trị một phần của Kotaku, người có biệt danh là Đại hiền triết Ratna Ratna Taisei).
Giả thuyết về tên, cung mệnh của 11 quan chấp hành Fatui và Băng thần Tsaritsa
Giả thuyết về tên, cung mệnh của 11 quan chấp hành Fatui và Băng thần Tsaritsa
Tên của 11 Quan Chấp hành Fatui được lấy cảm hứng từ Commedia Dell’arte, hay còn được biết đến với tên gọi Hài kịch Ý, là một loại hình nghệ thuật sân khấu rất được ưa chuộng ở châu
Giới thiệu anime: Hyouka
Giới thiệu anime: Hyouka
Hyouka (氷菓 - Băng Quả) hay còn có tên là "Kotenbu" (古典部 - Cổ Điển Hội) là 1 series light novel được sáng tác bởi nhà văn Honobu Yonezawa và phát hành bởi nhà xuất bản Kadokawa Shoten
Mối liên hệ giữa Attack on Titan và Thần Thoại Bắc Âu
Mối liên hệ giữa Attack on Titan và Thần Thoại Bắc Âu
Hôm nay mình sẽ bàn về những mối liên hệ mật thiết giữa AoT và Thần Thoại Bắc Âu nhé, vì hình tượng các Titan cũng như thế giới của nó là cảm hứng lấy từ Thần Thoại Bắc Âu