Công ty dot-com, hoặc đơn giản là dot-com (hay dot.com, dot com, dotcom hoặc .com), là một công ty thực hiện hầu hết các hoạt động kinh doanh của mình trên Internet, thường thông qua một website trên World Wide Web sử dụng tên miền cấp cao phổ biến ".com ".[1] Tính đến năm 2021, .com cho đến nay vẫn là TLD được sử dụng nhiều nhất, với gần một nửa số lượt đăng ký.[2]
Bắt nguồn từ từ commercial (thương mại),[3] tên miền .com trong URL thường (nhưng không phải luôn luôn) đề cập đến một tổ chức thương mại hoặc kinh doanh, trái ngược với một tổ chức phi thương mại hoặc tổ chức phi lợi nhuận thường sử dụng .org (bắt nguồn từ từ organization (tổ chức)). Vì các công ty .com thường hoạt động ở trên web nên các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ cũng thường được phân phối thông qua các cơ chế dựa trên web, ngay cả khi các sản phẩm đó có liên quan đến vật chất, và vẫn có những công ty .com không cung cấp bất kỳ sản phẩm vật chất nào.[4]
Tên miền cấp cao nhất (TLD) .com là một trong bảy miền đầu tiên được tạo khi Internet được triển khai lần đầu tiên vào năm 1985, cùng những tên miền khác là .mil, .gov, .edu, .net, .int và .org.[5] Ban đầu, tên miền này được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ kiểm soát, nhưng quyền kiểm soát sau đó được chuyển giao cho Quỹ Khoa học Quốc gia vì nó chủ yếu được sử dụng cho các mục đích không liên quan đến quốc phòng.[6]
Với việc tạo ra World Wide Web vào năm 1991, nhiều công ty đã bắt đầu tạo các trang web để bán sản phẩm của họ. Năm 1994, giao dịch thẻ tín dụng trực tuyến an toàn đầu tiên được thực hiện bằng nền tảng NetMarket.[7] Đến năm 1995, hơn 40 triệu người đang sử dụng Internet.[8] Cùng năm đó, các công ty bao gồm Amazon và eBay đã được thành lập, mở đường cho các công ty thương mại điện tử trong tương lai.[9] Vào thời điểm Amazon phát hành công khai lần đầu (IPO) ra công chúng vào năm 1997, họ ghi nhận doanh thu tăng 900% so với năm trước. Tuy nhiên đến năm 1998, với mức định giá hơn 14 tỷ USD, họ vẫn không kiếm được lợi nhuận.[10] Hiện tượng tương tự cũng xảy ra với nhiều công ty khác trên Internet – các nhà đầu tư mạo hiểm háo hức đầu tư vào các công ty đó ngay cả khi các công ty đó không kiếm được lãi. Vào cuối năm 1999, chỉ số NASDAQ đạt tỷ số P/E trên 200, cao hơn gấp đôi so với bong bóng giá tài sản Nhật Bản vào đầu những năm 1990.[11]