Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa | |
---|---|
Cảnh kỳ. | |
Hoạt động | 1955–1975 |
Quốc gia | Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Phân loại | -Lực lượng Bán Quân sự -An ninh Nội chính |
Quy mô | Toàn quốc |
Bộ phận của | Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa |
Khẩu hiệu | -Tổ quốc -Công minh -Liêm chính |
Tham chiến | Trận Mậu Thân |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | -Mai Hữu Xuân -Nguyễn Ngọc Lễ -Phạm Xuân Chiểu -Nguyễn Văn Là -Nguyễn Văn Y -Nguyễn Ngọc Loan -Trần Văn Hai -Nguyễn Khắc Bình |
Cảnh lực Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (Tiếng Anh: The Republic of Vietnam National Police / RVNP, tiếng Pháp: Police Nationale de la République du Vietnam / PNRVN) hay Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa[1] (gọi tắt: Cảnh sát Quốc gia / CSQG) là Lực lượng Bảo an Bán Quân sự của Việt Nam Cộng hòa, tồn tại từ 1955 đến năm 1975. Đây là một trong những Lực lượng góp vai trò quan trọng trong công tác phối hợp với Quân lực Việt Nam Cộng hòa để đương đầu với cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Trong suốt thời gian chiếm đóng Đông Dương, Sở Liêm phóng Đông Dương sử dụng khá nhiều người Việt phục vụ trong Hệ thống An ninh và Cảnh sát Thuộc địa để chống lại phong trào đấu tranh đòi lại quyền độc lập dân tộc của người bản xứ, nhằm duy trì quyền thống trị lâu dài của thực dân tại Đông Dương. Mặc dù phục vụ tích cực cho người Pháp và phải chịu sự xa lánh từ những người đồng bào, những người Việt tham gia vào Hệ thống An ninh và Cảnh sát Thuộc địa rất ít có cơ hội thăng tiến. Họ chỉ là những nhân viên thừa hành cấp thấp bởi vì quyền điều hành chỉ huy chỉ dành cho người Pháp.
Sau khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, để giảm bớt hình ảnh của thực dân xâm lược trước đây, người Pháp đã cho phép các nhân sĩ trí thức người Việt tán thành quyền cai trị của Pháp đối với Đông Dương được phép thành lập cho phép họ xây dựng các cơ quan hành chính địa phương như Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ, Ủy ban Lâm thời Trung Kỳ và Ủy ban Lâm thời Hành chính và Xã hội Bắc Kỳ, đặt dưới quyền kiểm soát hoàn toàn của Phủ Cao ủy Pháp. Các Cơ quan Hành chính Địa phương này được thành lập các cơ quan an ninh riêng, tuy nhiên Sở Liêm phóng liên bang và các Sở Liêm phóng Địa phương do người Pháp điều hành, luôn có thẩm quyền và quyền hạn trên cả các Cơ quan An ninh Địa phương.
Trước nhu cầu chiến tranh lan rộng, nhằm cô lập Việt Minh trong cuộc chiến giành độc lập dân tộc, người Pháp đã thỏa hiệp với các Lực lượng Chính trị Vũ trang chống Cộng, miễn là đặt dưới quyền kiểm soát toàn phần hoặc bán phần của Chính quyền Liên bang. Tại các vùng không kiểm soát được, họ giao lại nhiệm vụ Cảnh sát cho các Lực lượng Vũ trang cát cứ chống Cộng. Tại các vùng kiểm soát, các Sở Công an được thành lập ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn, ở mỗi Thị xã thành lập một Ty Cảnh sát. Tại Sài Gòn, người Pháp còn đi xa hơn khi giao nhiệm vụ cảnh sát lại cho Lực lượng Công an Xung phong của Quân đội Bình Xuyên để rảnh tay chống lại các Đơn vị Vũ trang của Việt Minh.
Các nhân viên an ninh cảnh sát hầu hết là cựu công chức người Việt thuộc các ngành an ninh hoặc các ngạch hành chính hay chuyên môn trong Chính quyền Thuộc địa Pháp trước năm 1945. Một số được tuyển dụng tạm thời. Về danh nghĩa, lương bổng của các nhân viên an ninh và cảnh sát do Chính quyền Địa phương trả, dù trên thực tế là trích từ ngân sách của Phủ Cao ủy.
Năm 1948, người Pháp thỏa hiệp, chấp thuận cho Cựu hoàng Bảo Đại đứng ra thành lập một Chính phủ Lâm thời Quốc gia Việt Nam với tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng. Sắc lệnh 48/SG ngày 18 tháng 2 năm 1948 cũng ấn định tổ chức các cơ quan trực thuộc Thứ trưởng Nội vụ, trong đó có một cơ quan an ninh và cảnh sát toàn quốc với tên gọi "Ty Giám đốc Cảnh sát và Mật thám Quốc gia".
Thực hiện Thỏa ước Việt-Pháp ngày 8 tháng 3 năm 1949, một số bộ phận an ninh do người Pháp điều hành bắt đầu chuyển giao cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, nhưng công tác tình báo vẫn do Sở Liêm phóng Liên bang đảm trách.
Việt Nam Cộng hòa có một cơ sở đào tạo nhân sự cho ngành cảnh sát là Học viện Cảnh sát Quốc gia.
Stt | Họ và tên | Cấp bậc | Chức danh | Tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Liêm phóng Pháp[4] |
|||||
Phòng Nhì Pháp |
|||||
Trường Hạ sĩ quan Pháp |
Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) | ||||
Võ bị Lục quân Yên Bái[7] |
Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) | ||||
Võ bị Tông Sơn Tây |
Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) | ||||
Võ bị Đà Lạt K3 |
Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) | ||||
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) | |||||
Võ bị Đà Lạt K5 |
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) | ||||
Võ khoa Thủ Đức K1[10] |
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) | ||||
Võ bị Đà Lạt K7 |
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) | ||||
Võ bị Huế K2 |
Tư lệnh |
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) | |||
Võ khoa Thủ Đức K1 |
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) | ||||
Ban Trí vận Sài Gòn - Gia Định |
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) |
Stt | Giai đoạn I 1955-1962 (6 bậc) |
Stt | Giai đoạn II 1962-1971 (14 bậc) |
Stt | Giai đoạn III 1971-1975 (14 cấp bậc) |
---|---|---|---|---|---|