Mẫu hình | đa mẫu hình: hướng đối tượng, thủ tục |
---|---|
Thiết kế bởi | Barbara Liskov và các sinh viên của bà |
Nhà phát triển | Viện Công nghệ Massachusetts |
Xuất hiện lần đầu | 1975 |
Phiên bản ổn định | |
Kiểm tra kiểu | Mạnh |
Trang mạng | www |
Các bản triển khai lớn | |
Native CLU,[1] Portable CLU,[2] clu2c[3] | |
Ảnh hưởng từ | |
ALGOL 60, Lisp, Simula | |
Ảnh hưởng tới | |
Ada, Argus, C++, Lua, Python,[4] Ruby, Sather, Swift[5] |
CLU là một ngôn ngữ lập trình được tạo ra ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) bởi Barbara Liskov và các sinh viên của bà trong khoảng thời gian từ 1974 đến 1975. Mặc dù không được sử dụng nhiều, nó đã giới thiệu nhiều tính năng được dùng rộng rãi hiện nay, và được xem là một bước trong sự phát triển của lập trình hướng đối tượng (OOP).
Những đóng góp chính bao gồm kiểu dữ liệu trừu tượng,[6] call-by-sharing, iterator, nhiều giá trị trả về (một dạng của gán song song), kiểu tham số an toàn, và kiểu biến thể an toàn. Nó cũng gây chú ý vì cách dùng lớp với hàm tạo và phương thức mà không cần kế thừa.
replace "CLU" with "Python", "record" with "instance", and "procedure" with "function or method", and you get a pretty accurate description of Python's object model.
The Swift language is the product of tireless effort from a team of language experts, documentation gurus, compiler optimization ninjas, and an incredibly important internal dogfooding group who provided feedback to help refine and battle-test ideas. Of course, it also greatly benefited from the experiences hard-won by many other languages in the field, drawing ideas from Objective-C, Rust, Haskell, Ruby, Python, C#, CLU, and far too many others to list.