Capella Cracoviensis

Capella Cracoviensis
Dàn nhạc và Hợp xướng
Capella Cracoviensis đệm cho Countertenor Xavier Sabata tại Festival Peralada 2016

Tập tin:Capella Cracoviensis (logo1-2).jpg
Thành lập1970 (1970)
Phòng hòa nhạcKrakow Philharmonic Hall
Trang webcapellacracoviensis.pl

Capella Cracoviensis là một dàn nhạc và dàn Hợp xướng giao hưởng chuyên nghiệp đóng trụ sở tại Kraków, Ba Lan. Được thành lập từ năm 1970 bởi nhà soạn nhạc và nhạc trưởng Stanisław Gałoński (1936-) cũng là quản lý và tổng giám đốc đầu tiên của đoàn. Capella Cracoviensis chuyên về early music, đa âm Phục Hưng, Baroque Ba Lan, và nhạc thính phòng cổ điển được chơi bằng các nhạc cụ thời bấy giờ cũng như Ôratô (nhạc kinh thánh) và các bản nhạc opera bao gồm cả các tác phẩm của Wolfgang Amadeus Mozart. Trụ sở của Dàn nhạc là công trình Kraków Philharmonic lịch sử nằm ở đường Zwierzyniecka. Các buổi biểu diễn thường xuyên tại nhiều địa điểm nổi tiếng thế giới đã khẳng định vị trí của một trong những dàn nhạc nổi tiếng qua từng thời kỳ ở Ba Lan.[1][2][3]

Sơ lược

[sửa | sửa mã nguồn]
Bên trongKraków Philharmonic, ngôi nhà của Capella Cracoviensis

Capella Cracoviensis (CC) đã ra nhiều CD trong những năm qua, đáng chú ý có Mass in B minor (tạm dịch: Mass cung Si thứ) của Johann Sebastian Bach, Coronation Mass của Wolfgang Amadeus Mozart, và 6 bản giao hưởng thính phòng và 3 bản Opéras-Minutes của Darius Milhaud.[4] Dàn nhạc đã lưu diễn ở nhiều nước Châu Âu, ở Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan với buổi hòa nhạc được tổ chức cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại Vatican vào ngày 9 tháng 4 năm 2000,[1] trên đường trở về từ cuộc hành hương đến Bethlehem.[5]

Các buổi biểu diễn của dàn nhạc quy tụ các nhạc công và ca sĩ được chào đón ở Ba Lan và nước ngoài. Khách mời trình diễn cũng như các chỉ huy dàn nhạc cho đoàn có Alessandro Moccia của Dàn nhạc giao hưởng Champs-Élysées, Alberto Stevanin (Il Giardino Armonico, I Barocchisti của Ravenna, Ensemble Matheus), Fabio Ravasi (Europa Galante), Peter Hanson (Orchestre Revolutionnaire et Romantique); chỉ huy dàn nhạc có Paul Goodwin, Andrew Parrott, Andreas Spering, Paul McCreesh, Roy Goodman, Fabio Bonizzoni, Matteo Messori và nhiều người khác. Dàn nhạc làm việc trong các dự án cùng các công ty chuyên về nhạc early music như Nachtmusique và Oltremontano.[3][6]

Năm 1992, đoàn nhận được hai giải thưởng danh giá cho các bản thu âm của Milhaud: Diapason d'Or của Pháp và Grand Prix du Disque (tạm dịch: Kỷ lục dành cho Đĩa thu) từ Académie Charles Cros. Năm 2008, một giám đốc mới được thành phố bổ nhiệm, và sau đó là giai đoạn chuyển đổi của đoàn. Dàn nhạc giao hưởng nhận được gần hai triệu Złoty Ba Lan tiền tài trợ dự án mới từ Bộ Văn hóa và Di sản Quốc gia (Ba Lan) vào năm 2011, đây là mức kỷ lịch của âm nhạc địa phương.[7] Nguồn vốn này giúp đoàn khởi động liên hoan Verba et Voces về quy tụ được các ngôi sao quốc tế như Kai Wessel. CC cũng sản xuất các Ôratô (nhạc kinh thánh) lớn của Handel (Theodora, Athalia, vàDeborah), cũng như Le nozze di Figaro của Mozart, cùng với một loạt các bản Masses lớn và các buổi hòa nhạc Baroque Ba Lan miễn phí khắp vùng.[8][9][10] Giám đốc âm nhạc Jan Tomasz Adamus làm dấy lên tranh cãi đáng kể khi vào tháng 1 năm 2011, ông yêu cầu toàn bộ nhạc công của CC chuyển từ nhạc cụ tiêu chuẩn sang nhạc cụ cổ hoặc rời đoàn nếu họ không làm như vậy. Tám thành viên cao cấp bị sa thải và đã tổ chức một cuộc biểu tình nhỏ trên đường phố với sự hỗ trợ của công đoàn,[11][12] nhưng việc thay đổi đã minh chứng cho lợi ích đem về cho đoàn. CC trải qua bài học cho sự hồi sinh âm nhạc từ khi chuyển sang nhạc cụ cổ, kết quả là nhận được quan tâm từ công chúng và nhận xét tích cực từ các nhà phê bình (Gazeta.pl; Wyborcza.pl).[7][13]

Ghi chú và tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Polskie Centrum Informacji Muzycznej, Związek Kompozytorów Polskich (tháng 1 năm 2002). “Capella Cracoviensis”. Union of Polish Composers, Baza wiedzy (bằng tiếng Ba Lan). Adam Mickiewicz Institute Culture.pl. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2013.
  2. ^ Culture reviews (2013). “Capella Cracoviensis”. Krakow. Music. Cracow-Life.com. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2013.
  3. ^ a b Capella Cracoviensis (2012). “About us”. General information (bằng tiếng Ba Lan). Capella Cracoviensis. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2013.
  4. ^ M.S. (2013). “Capella Cracoviensis” (bằng tiếng Ba Lan). Muzyczne Spotkania (Musical Encounters). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2013.
  5. ^ CBN (2013). “Pope John Paul II Timeline”. The Christian Broadcasting Network. The Associated Press. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2013.
  6. ^ Paweł Orski (2011). “Capella Cracoviensis, orchestra and choir”. Artists. Calendar (Press release) (bằng tiếng Anh và Ba Lan). Agencja Ars Operae. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2013.
  7. ^ a b Tomasz Handzlik (ngày 7 tháng 1 năm 2012). “Capella Cracoviensis. Rewolucja już się dokonała (CC. The revolution proved a success)”. Wiadomości z Krakowa (News from Krakow) (bằng tiếng Ba Lan). Gazeta.pl > Kraków. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2013. Street protest photo, placard reads: Return laid off players
  8. ^ Tomasz Handzlik (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Miliony na barok: dotacja dla Capelli Cracoviensis (Millions for Baroque: dotation for the Capella)”. Kultura (bằng tiếng Ba Lan). Kraków.Gazeta.pl. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
  9. ^ Press release. “Capella Cracoviensis: Verba et voces. Kraków concerts: 10/ngày 11 tháng 12 năm 2011. Krakowskie Biuro Festiwalowe (Festival Bureau of Krakow). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
  10. ^ Press release (ngày 22 tháng 8 năm 2011). “Capella Cracoviensis: Three by Three”. Kraków concerts. Venue: St Catherine's Church. Krakowskie Biuro Festiwalowe (Festival Bureau of Krakow). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
  11. ^ Tomasz Handzlik (2011). “Rewolucje w Capelli Cracoviensis (Revolution at CC)”. Rozmowa z J.T.Adamusem (Interview with J.T. Adamus) (bằng tiếng Ba Lan). Narodowy Instytut Audiowizualny, Dwutygodnik / 50. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2013.
  12. ^ Marek Bartosik (ngày 15 tháng 1 năm 2012). “Muzycy orkiestry Capella Cracoviensis nadal skłóceni z dyrektorem (The musicians are still angry with the director)”. Kraków » Wydarzenia (bằng tiếng Ba Lan). Kraków naszemiasto.pl. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2013.
  13. ^ Jacek Hawryluk, Polskie Radio (ngày 31 tháng 12 năm 2011). “Lubimy muzykę dawną (on early music)”. 2011 w muzyce poważnej. Gra w lidze światowej (World League in Classical music). Gazeta Wyborcza wyborcza.pl. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013. ...rejuvenated Capella Cracoviensis joins the European league of early music (...odmłodzona i sprofilowana Capella Cracoviensis dołącza do europejskiej ligi muzyki dawnej).


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tìm hiểu tổ chức Shadow Garden -  The Eminence In Shadow
Tìm hiểu tổ chức Shadow Garden - The Eminence In Shadow
Shadow Garden (シャドウガーデン, Shadou Gāden?) là một tổ chức ẩn bí ẩn được thành lập bởi Cid Kagenō còn được gọi là Shadow.
Guide Potions trong Postknight
Guide Potions trong Postknight
Potions là loại thuốc tăng sức mạnh có thể tái sử dụng để hồi một lượng điểm máu cụ thể và cấp thêm một buff, tùy thuộc vào loại thuốc được tiêu thụ
Visual Novel Summer Pockets Việt hóa
Visual Novel Summer Pockets Việt hóa
Bối cảnh Summer Pocket được đặt vào mùa hè trên hòn đảo Torishirojima. Nhân vật chính của chúng ta, Takahara Hairi sống ở thành thị, nhưng vì một sự việc xảy ra nên anh mượn cớ cái chết gần đây của bà ngoại để đến hòn đảo này với lí do phụ giúp người dì dọn dẹp đồ cổ của người bà quá cố
Vì sao Arcane là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế
Vì sao Arcane là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế
Vì sao 'Arcane' là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế? Nó được trình chiếu cho khán giả toàn cầu nhưng dựa trên tiêu chuẩn khắt khe để làm hài lòng game thủ