Chương trình hạt nhân của Iran

Chương trình hạt nhân của Iran đã bao gồm một số địa điểm nghiên cứu, hai mỏ uranium, lò phản ứng nghiên cứu và các cơ sở chế biến urani, bao gồm ba nhà máy làm làm giàu urani nổi tiếng.[1] Năm 1970, Iran đã phê chuẩn Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT),[2] đưa chương trình hạt nhân của mình trở thành cơ quan của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA).

Chương trình đã được đưa ra vào những năm 1950 với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ như là một phần của chương trình Atoms for Peace.[3] Sự tham gia của Hoa Kỳ và các chính phủ Tây Âu trong chương trình hạt nhân của Iran vẫn tiếp tục cho đến cuộc cách mạng Iran năm 1979 đã lật đổ Shah của Iran.[4] Sau cuộc cách mạng 1979, hầu hết hợp tác hạt nhân quốc tế với Iran bị cắt đứt. Năm 1981, các quan chức Iran kết luận rằng phát triển hạt nhân của đất nước sẽ tiếp tục. Các cuộc đàm phán đã diễn ra với Pháp vào cuối những năm 1980 và với Argentina vào đầu những năm 1990 và đã đạt được thỏa thuận. Trong những năm 1990, Nga đã thành lập một tổ chức nghiên cứu chung với Iran, cung cấp cho Iran các chuyên gia hạt nhân Nga và thông tin kỹ thuật.

Vào những năm 2000, việc tiết lộ chương trình làm giàu urani bí mật của Iran đã làm dấy lên mối lo ngại rằng nó có thể được sử dụng cho mục đích sử dụng phi hoà bình. IAEA đã khởi động một cuộc điều tra vào năm 2003 sau khi một nhóm người bất đồng chính kiến ​​Iran tiết lộ các hoạt động hạt nhân không được công bố của Iran.[5][6] Năm 2006, do không tuân thủ các nghĩa vụ của NPT của Iran, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc yêu cầu Iran ngừng các chương trình làm giàu của mình. Trong năm 2007, Ước tính Tình báo Quốc gia của Hoa Kỳ (NIE) đã tuyên bố rằng Iran ngừng chương trình vũ khí hạt nhân đang hoạt động vào năm 2003.[7] Vào tháng 11 năm 2011, IAEA đưa ra bằng chứng đáng tin cậy rằng Iran đã tiến hành các thí nghiệm nhằm thiết kế một quả bom hạt nhân cho đến năm 2003 và nghiên cứu đó có thể tiếp tục ở quy mô nhỏ hơn sau thời gian đó.[8][9]

Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Iran, lò phản ứng Bushehr I, đã hoàn thành với sự trợ giúp lớn từ Rosatom của chính phủ Nga và chính thức khai trương vào ngày 12 tháng 9 năm 2011.[10] Nhà thầu xây dựng Nga Atomenergoprom cho biết Nhà máy điện hạt nhân Bushehr sẽ đạt công suất đầy đủ vào cuối năm 2012.[11] Iran cũng đã tuyên bố đang tiến hành xây dựng một nhà máy điện hạt nhân mới công suất 360 MW nằm ở Darkhovin và sẽ tìm kiếm thêm các nhà máy điện hạt nhân cỡ trung và các mỏ urani trong tương lai.[12]

Vào năm 2015, chương trình hạt nhân của Iran đã mất 100 tỷ USD doanh thu từ dầu hỏa và mất đầu tư trực tiếp nước ngoài do các biện pháp trừng phạt quốc tế (500 tỷ USD, khi tính thêm chi phí cơ hội khác).[13][14]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kerr, Paul (ngày 26 tháng 9 năm 2012). “Iran's Nuclear Program: Status” (PDF). Congressional Research Service. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2012.
  2. ^ “Signatories and Parties to the Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons”. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2006.
  3. ^ Roe, Sam (ngày 28 tháng 1 năm 2007). “An atomic threat made in America”. Chicago Tribune. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2009.
  4. ^ “Iran Affairs: Blasts from the Past: Western Support for Iran's Nuclear program”. 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008.
  5. ^ “ArmsControlWonk: Exiles and Iran Intel”. Armscontrolwonk.com. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
  6. ^ “Implementation of the NPT safeguards agreement in the Islamic Republic of Iran” (PDF). iaea.org. GOV/2003/40. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2017.
  7. ^ “Iran: Nuclear Intentions and Capabilities (National Intelligence Estimate)” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2009.
  8. ^ “IAEA Report for military dimensions, see pages 4–12” (PDF). International Atomic Energy Agency. ngày 8 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2011.
  9. ^ “U.N. nuclear watchdog board rebukes defiant Iran”. Reuters. ngày 18 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2011.
  10. ^ “Iran launches Bushehr nuclear power plant”. RIA Novosti. ngày 12 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2011.
  11. ^ “Bushehr NPP to be brought to full capacity by year-end”. The Voice of Russia. ngày 29 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2012.
  12. ^ “Iran sees Bushehr plant at full capacity in one year”. AFP. ngày 18 tháng 12 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate=|archive-date= (trợ giúp)
  13. ^ Vaez, Ali; Sadjadpour, Karim (ngày 2 tháng 4 năm 2013), “Iran's Nuclear Odyssey: Costs and Risks”, Carnegie Endowment for International Peace
  14. ^ “Iran's nuclear program may have cost the country $500 billion or more”. SFGate. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2017.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Kể từ ngày Eren Jeager của Tân Đế chế Eldia tuyên chiến với cả thế giới, anh đã vấp phải làn sóng phản đối và chỉ trích không thương tiếc
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Tira chị em sinh 3 của Tina Tia , khác vs 2 chị em bị rung động bởi người khác thì Tira luôn giữ vững lập trường và trung thành tuyệt đối đối vs tổ chức sát thủ của mình
Airi Sakura Classroom of the Elite
Airi Sakura Classroom of the Elite
Airi Sakura (佐さ倉くら 愛あい里り, Sakura Airi) là một học sinh của Lớp 1-D và từng là một người mẫu ảnh (gravure idol).
Đấng tối cao Bellriver - Overlord
Đấng tối cao Bellriver - Overlord
Bellriver một trong những quân sư chiến lược gia trong hàng ngũ 41 Đấng Tối Cao của Đại Lăng Nazarick