Phế nang có thể được so sánh với khí trong nước, vì phế nang ướt và bao quanh là khí. Sức căng bề mặt hoạt động tại bề mặt không khí-nước và có xu hướng làm bọt khí nhỏ về kích thước (bằng cách giảm diện tích bề mặt không khí-nước). Áp suất khí (P) cần thiết để giữ cân bằng giữa lực co vào của sức căng bề mặt (γ) và lực giãn nở của khí trong một phế nang bán kính r được biểu thị theo định luật Young–Laplace:
Cuối thập niên 1920, von Neergaard[4] xác định chức năng của chất hoạt diện phổi trong việc tăng đôi giãn nở của phổi bằng cách giảm sức căng bề mặt. Tuy nhiên, ý nghĩa của khám phá của ông không được cộng đồng khoa học và y tế hiểu ra vào thời điểm đó. Ông cũng nhận ra tầm quan trọng của sức căng bề mặt thấp trong phổi trẻ sơ sinh. Sau đó, vào giữa những năm 1950, Pattle và Clements tái khám phá tầm quan trọng của chất hoạt diện và sức căng bề mặt thấp trong phổi. Vào cuối thập kỷ đó, người ta đã phát hiện ra rằng việc thiếu chất hoạt diện gây ra bệnh màng trong sơ sinh (IRDS).[5][6]
^Bernhard, W (tháng 11 năm 2016). “Lung surfactant: Function and composition in the context of development and respiratory physiology”. Annals of Anatomy. 208: 146–150. doi:10.1016/j.aanat.2016.08.003. PMID27693601.
^Neergaard, K. (1929). “Neue Auffassungen über einen Grundbegriff der Atemmechanik” [New views on a fundamental concept of respiratory mechanics]. Zeitschrift für Die Gesamte Experimentelle Medizin (bằng tiếng Đức). 66 (1): 373–94. doi:10.1007/bf02621963.
^Avery, Mary Ellen (1 tháng 5 năm 1959). “Surface Properties in Relation to Atelectasis and Hyaline Membrane Disease”. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine (bằng tiếng Anh). 97 (5_PART_I): 517–23. doi:10.1001/archpedi.1959.02070010519001. ISSN1072-4710. PMID13649082.