Bài này có thể cần phải được sửa các lỗi ngữ pháp, chính tả, tính mạch lạc, trau chuốt lại lối hành văn sao cho bách khoa. Xin hãy cải thiện bài này bằng cách sửa bài.(tháng 12/2023)
Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. Xin hãy giúp cải thiện bài viết hoặc viết lại để hành văn tiếng Việt được tự nhiên hơn và đúng ngữ pháp.
Chú ý: Những bản dịch rõ ràng là dịch máy hoặc có chất lượng kém, KHÔNG dùng bản mẫu này, vui lòng đặt {{thế:clk|dịch máy chất lượng kém}} hoặc {{thế:cld5}} để xóa bản dịch kém.(tháng 12/2023)
Chữ viết sông Ấn, còn được gọi là chữ Harappa, là một tập hợp các ký tự được tạo ra bởi nền văn minh lưu vực sông Ấn. Hầu hết các bản khắc chứa các ký tự này đều cực kỳ ngắn, gây khó khăn trong việc phản xét liệu các ký tự này có cấu thành một hệ thống chữ viết dùng để ghi chép (các) ngôn ngữ vẫn chưa được xác định của nền văn minh lưu vực sông Ấn[3] hay không. Dù có nhiều cố gắng,[4] 'chữ viết' này chưa được giải mã, nhưng các nỗ lực vẫn đang tiếp diễn. Không có bản chữ khắc song ngữ nào được nhận dạng để giúp giải mã chữ viết,[5] cho thấy không có thay đổi đáng kể theo thời gian. Tuy nhiên, một số cú pháp (nếu đó là những gì có thể được gọi) thay đổi tùy theo vị trí.[3]
Ẩn phẩm đầu tiên của một con dấu với các ký tự Harappa là vào năm 1875,[6] trong một bức vẽ của Alexander Cunningham.[7] Đến năm 1992, ước tính có khoảng 4.000 đồ vật được khắc đã được tìm thấy,[8] một số ở xa như Lưỡng Hà, do mối quan hệ sông Ấn–Lưỡng Hà cổ, với hơn 400 ký tự riêng biệt đại diện trên các dòng chữ khắc xác định.[9][5]
Phần lớn các ký tự là tượng hình, mô tả các đồ vật tìm thấy trong thế giới cổ đại nói chung, tìm thấy trong văn hóa Harappa địa phương, hoặc có nguồn gốc từ thế giới tự nhiên.[22] Tuy nhiên, các ký tự trừu tượng cũng được xác định. Một số ký tự là ký tự ghép giữa các ký tự tượng hình, trong khi các ký tự khác không được biết là xảy ra một cách đơn lập, được biết đến chỉ xảy ra như là thành phần của các ký tự phức tạp hơn.[22] Một số ký tự giống như dấu vạch và thường được hiểu là các số sớm.[23][24][25]
Phông chữ sông ấn là một phông chữPrivate Use Areas (PUA) giống như chữ viết sông Ấn.[29] Phông chữ này được thiết kế dựa trên một ngữ liệu biên soạn bởi nhà Sindh họcAsko Parpola trong cuốn Deciphering the Indus Script của ông.[30] Amar Fayaz Buriro, một kỹ sư ngôn ngữ, và Shabir Kumbhar, một nhà thiết kế phông chữ, được giao nhiệm vụ bởi Quỹ quốc gia dành cho Mohenjo-daro để thiết kế phông chữ này, và họ đã trình bày tại một hội nghị quốc tế về Mohenjo-daro và nền văn học lưu vực sông Ấn vào ngày 8 tháng 2 năm 2017.[31][32][cần nguồn tốt hơn]
^Bryant (2001), tr. 178: "chữ viết sông Ấn guyên thủy trên mảnh gốm từ giai đoạn Ravi sớm nhất là vào năm 3500 T.C.N."
^'Ký tự 4' là một ký tự ghép giữa 'ký tự 1', mô tả một người cầm hai đồ nặng, và 'ký tự 311', ký tự "bình". Quy ước đánh số cho chữ viết sông Ấn của Asko Parpola.[20] For an alternative numbering scheme, refer to Mahadevan (1977).
Knorozov, Yuri V. (1965), Предварительное сообщение об исследовании протоиндийских текстов [Preliminary Report on the Study of Proto-Indian Texts] (bằng tiếng Nga), Moscow: Institut Etnografii, Akademiya Nauk SSSR
Marshall, John (1931). Mohenjo-Daro and the Indus Civilization: Being an Official Account of Archaeological Excavations at Mohenjo-Daro Carried Out by the Government of India Between the Years 1922 and 1927. Asian Educational Services. ISBN978-81-206-1179-5.
Meadow, Richard H.; Kenoyer, Jonathan Mark (2010). “Inscribed Objects from Harappa Excavations 1986–2007”(PDF). Trong Parpola, Asko; Pande, B. M.; Koskikallio, Petteri (biên tập). Corpus of Indus Seals and Inscriptions. 3, New material, untraced objects, and collections outside India and Pakistan, Part 1: Mohenjo-daro and Harappa. Suomalainen Tiedeakatemia. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2011.
Mitchiner, John E. (1978). Studies in the Indus Valley Inscriptions. New Delhi: Oxford & IBH.
Mukhopadhyay, Bahata Ansumali (2018a). “Interrogating Indus Inscriptions Through Their Context, Structure and Compositional Semantics, to Understand Their Inner Logic of Message Conveyance”. SSRN Electronic Journal. doi:10.2139/ssrn.3184583.
Newberry, John (1980). Indus script monographs, volumes 1-7.
Paranavitana, Senarat; Prematilleka, Leelananda; Van Lohuizen-De Leeuw, Johanna Engelberta (1978). Studies in South Asian Culture: Senarat Paranavitana Commemoration Volume. Brill. ISBN90-04-05455-3.
Parpola, Asko (1986). “The Indus script: A challenging puzzle”. World Archaeology. 17 (3): 399–419. doi:10.1080/00438243.1986.9979979.
Ray, Himanshu Prabha (2006). “Inscribed pots, emerging identities”. Trong Patrick Olivelle (biên tập). Between the Empires: Society in India 300 BCE to 400 CE. Oxford University Press. tr. 113–139.
Sali, S. A. (1986). Daimabad: 1976–79. Archaeological Survey of India – qua indianculture.gov.in.
Salomon, Richard (1995). “Review: On the Origin of the Early Indian Scripts”. Journal of the American Oriental Society. 115 (2): 271–279. doi:10.2307/604670. JSTOR604670.
Sankaranarayanan, Vijayam biên tập (2007). Themes in History, Part-I. National Council of Educational Research and Training (NCERT). ISBN978-81-7450-651-1.
Parpola, Asko; Joshi, Jagat Pati (1987). Corpus of Indus seals and inscriptions. 1, Collections in India. Helsinki: Suomalainen Tiedeakatemia.
Parpola, Asko; Shah, Sayid Ghulam Mustafa (1991). Corpus of Indus seals and inscriptions. 2, Collections in Pakistan. Helsinki: Suomalainen Tiedeakatemia.
Parpola, Asko; Pande, Brij Mohan; Koskikallio, Petteri (2010). Corpus of Indus seals and inscriptions. 3, New material, untraced objects, and collections outside India and Pakistan, Part 1: Mohenjo-daro and Harappa. Helsinki: Suomalainen Tiedeakatemia.
Vidale, Massimo (2007). “The collapse melts down: a reply to Farmer, Sproat and Witzel”. Philosophy East and West. 57 (1–4): 333–366. JSTOR29757733.