Charity Adule

Charity Adule
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Charity Ogbenyealu Adule
Ngày sinh 7 tháng 11, 1993 (31 tuổi)
Nơi sinh Warri, Delta State, Nigeria
Thông tin đội
Đội hiện nay
BIIK Kazygurt
Số áo 20
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2006–2011 Rivers Angels
2011–2014 Bayelsa Queens 40 (57)
2014– BIIK Kazygurt
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
Nigeria U-20
2013– Nigeria
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Charity Ogbenyealu Adule (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1993 tại Warri, Delta State, Nigeria) là một cầu thủ bóng đá Nigeria, chơi cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria. Ở cấp độ câu lạc bộ, cô từng chơi bóng cho các đội bóng khác nhau như Rivers Angels, Bayelsa Queens và BIIK Kazygurt.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Cấp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Adule bắt đầu sự nghiệp bằng việc tham gia đội bóng Rivers Angels và ra mắt năm 14 tuổi tại Cup Thách thức Bóng đá Nữ 2006[1][2] Sự ra mắt chuyên nghiệp của cô là trận đấu với đội bóng đối thủ Pelican Stars, mà sau này cô được mô tả là trận đấu đáng nhớ nhất trong sự nghiệp của mình. Cô ghi bàn thắng và Rivers Angels xếp thứ ba chung cuộc trong toàn giải đấu.[1]

Vào mùa xuân năm 2011, cô rời Rivers Angels và gia nhập câu lạc bộ bóng đá nữ chuyên nghiệp Bayelsa Queens ở Yenagoa.[1] Adule ghi được 57 bàn thắng chỉ trong 40 trận,[1] cho Bayelsa Queens, và dẫn đến việc cô ký hợp đồng với nhà vô địch Kazakhstan BIIK Kazygurt.[3] Cô tham gia thi đấu chính thức lần đầu cho BIIK tại UEFA Women Champions League vào ngày 8 tháng 10 năm 2014 trong trận đấu với đối thủ FFC Frankfurt của Đức.[4]

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Adule chơi cho U20 Nigeria tại World Cup FIFA U-20 dành cho nữ 2010 ở Đức và World Cup FIFA U-20 dành cho nữ 2012 tại Nhật Bản.[5][6] Từ năm 2013, Adule chơi cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria.[3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d “Q & A With Adule Charity”. SL10. ngày 12 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  2. ^ “Nigeria (Women) 2006”. RSSSF. ngày 31 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  3. ^ a b “Adule Eyes UEFA, National Team Honours for 2014 Season”. Gong News. ngày 26 tháng 1 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  4. ^ “FRANKFURT NUR 2:2 BEIM KASACHISCHEN MEISTER” (bằng tiếng Đức). DFB. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  5. ^ Alaka, Babajide (ngày 30 tháng 6 năm 2012). “Nigeria's U-20 women's team return to camp to prepare for tough World Cup challenge”. Goal.com. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  6. ^ “List of Players” (PDF). FIFA. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Kỹ năng của Toshinori Yagi - One For All - Boku no Hero Academia
Kỹ năng của Toshinori Yagi - One For All - Boku no Hero Academia
Là anh hùng nổi tiếng nhất thế giới - All Might, Toshinori là người kế nhiệm thứ 8 và có thể sử dụng rất thành thạo One For All
Tất tần tật về nghề Telesales
Tất tần tật về nghề Telesales
Telesales là cụm từ viết tắt của Telephone là Điện thoại và Sale là bán hàng
Chongyun: Giải mã cuộc đời
Chongyun: Giải mã cuộc đời
Chắc ai cũng biết về Chongyun ngây thơ và đáng yêu này rồi
Giới thiệu truyện: Liệu anh sẽ phải lòng một bộ xương khô chứ?
Giới thiệu truyện: Liệu anh sẽ phải lòng một bộ xương khô chứ?
Anh chàng thám hiểm ngày nọ vào lâu đài cổ thì phát hiện ra bộ xương của công chúa đã die cách đây rất lâu