Chiến tranh Cá tuyết

Chiến tranh Cá tuyết (tiếng Iceland: Þorskastríðin; cũng gọi là Landhelgisstríðin, n.đ.'Chiến tranh Duyên hải'; tiếng Đức: Kabeljaukriege) là một loạt các cuộc đối đầu trong thế kỷ 20 giữa Vương quốc Anh (với viện trợ từ Tây Đức) và Iceland về quyền đánh bắt cáBắc Đại Tây Dương. Mỗi cuộc tranh chấp đều kết thúc với phần thắng thuộc về Iceland.[1][2]

Một số nhà sử học Iceland xem lịch sử đấu tranh giành quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên biển của Iceland trong mười tập phim, hoặc mười cuộc chiến tranh cá tuyết.[3] Thuyền đánh cá từ Anh đã đi thuyền đến vùng biển gần Iceland để đánh bắt kể từ thế kỷ 14. Các thỏa thuận được ký kết trong thế kỷ 15 đã khởi đầu cho một loạt các tranh chấp kéo dài hàng thế kỷ giữa hai nước. Nhu cầu đối với thủy sản và hậu quả là cạnh tranh về nguồn cá tăng nhanh trong thế kỷ 19.

Một số nhà sử học Iceland xem lịch sử đấu tranh giành quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên biển của Iceland trong mười giai đoạn, hoặc mười cuộc chiến tranh cá tuyết.[3] Thuyền đánh cá từ Anh đã đi thuyền đến vùng biển gần Iceland để đánh bắt cá kể từ thế kỷ 14. Các thỏa thuận được ký kết trong thế kỷ 15 đã khởi đầu cho một loạt các tranh chấp kéo dài hàng thế kỷ giữa hai nước. Nhu cầu về hải sản và hậu quả là cạnh tranh về nguồn cá tăng nhanh trong thế kỷ 19.

Các cuộc tranh chấp hoặc chiến tranh hiện đại bắt đầu vào năm 1952 sau khi Iceland mở rộng lãnh hải từ 3 thành 4 hải lý (7 kilômét) dựa trên một phán quyết của Tòa án quốc tế. Vương quốc Anh đáp trả bằng cách cấm tàu ​​Iceland đánh cá ở các cảng của Anh.[4] Năm 1958, sau một hội nghị của Liên Hiệp Quốc, tại đó một số quốc gia đã tìm cách mở rộng giới hạn lãnh hải của họ đến 12 nmi (22 km) mà không đạt được thỏa thuận nào, Iceland đã đơn phương mở rộng lãnh hải của mình đến giới hạn này và cấm các hạm đội nước ngoài đánh bắt trong vùng biển này. Anh từ chối chấp nhận quyết định này.[5] Điều này dẫn đến một loạt các cuộc đối đầu hiện đại với Vương quốc Anh và các nước Tây Âu khác diễn ra trong ba giai đoạn trong hơn 20 năm: 1958–1961, 1972–73 và 1975–76. Một mối đe dọa về thiệt hại và nguy hiểm đến tính mạng đã hiện hữu, với các tàu đánh cá của Anh được hộ tống đến ngư trường bởi Hải quân Hoàng gia trong khi Lực lượng tuần duyên Iceland cố gắng đuổi họ đi và sử dụng các hawser (dây thừng lớn) đến cắt lưới từ các thuyền của Anh; tàu của cả hai bên đều bị thiệt hại do các cuộc tấn công ramming.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Habeeb, William (1988). "6". Power and Tactics in International Negotiations: How Weak Nations Bargain with Strong Nations. Johns Hopkins University Press.
  2. ^ Cook, Bernard A. (ngày 27 tháng 1 năm 2014). Europe Since 1945: An Encyclopedia (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 605. ISBN 978-1-135-17932-8.
  3. ^ a b Þorsteinsson, Björn (1976). Tíu þorskastríð 1415–1976.
  4. ^ How Iceland Beat the British in the Four Cod Wars, Gastro Obscura, 21June 2018
  5. ^ "Cabinet Papers: The Cod Wars". National Archives (UK). Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2020.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tìm hiểu cơ chế tính điểm phim của IMDb
Tìm hiểu cơ chế tính điểm phim của IMDb
Ratings trên IMDb được tính toán dựa trên số điểm của users theo thang từ 1-10
[Preview] Koigoku No Toshi – Thành phố chúng ta đang sống là giả?
[Preview] Koigoku No Toshi – Thành phố chúng ta đang sống là giả?
Makoto, một thanh niên đã crush Ai- cô bạn thời thơ ấu của mình tận 10 năm trời, bám theo cô lên tận đại học mà vẫn chưa có cơ hội tỏ tình
Seeker: lực lượng chiến đấu tinh nhuệ bậc nhất của phe Decepticon Transformers
Seeker: lực lượng chiến đấu tinh nhuệ bậc nhất của phe Decepticon Transformers
Seeker (Kẻ dò tìm) là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm các người lính phản lực của Decepticon trong The Transformers
Chiori – Lối chơi, hướng build và đội hình
Chiori – Lối chơi, hướng build và đội hình
Như ta sẽ thấy, Chiori là nhân vật scale song song def và att. Mặc dù base att của cô cũng khá cao (top 11)