Elżbieta Sikora

Elżbieta Sikora
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
20 tháng 10, 1943
Nơi sinh
Lviv
Nơi cư trúParis
Giới tínhnữ
Quốc tịchBa Lan, Pháp
Nghề nghiệpnhà soạn nhạc, nhà soạn nhạc phim
Thầy giáoTadeusz Baird, Zbigniew Rudziński, Pierre Schaeffer, François Bayle, Betsy Jolas
Sự nghiệp nghệ thuật
Đào tạoĐại học Âm nhạc Fryderyk Chopin
Thể loạinhạc điện tử, opera
Giải thưởngHuân chương Nghệ thuật và Văn học hạng 3, Knight of the Order of Merit of the Republic of Poland
Website

Elżbieta Sikora (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1943[1] tại Lviv, theo một số nguồn khác thì năm sinh của bà là 1944 hoặc 1945 [2]) là một nhà soạn nhạc người Ba Lan. Từ năm 1981 đến nay, bà đã và đang thường trú tại Pháp.[1] Sikora là tác giả của nhiều tác phẩm âm nhạc dành cho sân khấu, dàn nhạc giao hưởng, nhạc thính phòng, hợp xướng, thanh nhạc và điện âm. Bà cũng là tác giả của nhiều bản nhạc nền phim.

Elżbieta Sikora từng là học trò của Pierre Schaeffer, François Bayle,[1] Tadeusz Baird và Zbigniew Rudzinski.[3]

Bà được nhận nhiều danh hiệu. Bà đã giành được Giải Nhất trong cuộc thi GEDOK ở Mannheim (1981, cho tác phẩm Guernica, hommage à Pablo Picasso).[3] Bà cũng chiến thắng Prix de la Partition Pédagogique và Prix Stéphane Chapelier-Clergue-Gabriel-Marie; cả hai giải thưởng này đều được SACEM trao vào năm 1994.[4] Ngoài ra, bà còn được nhận Giải thưởng SACD Prix Nouveau Talent Musique vào năm 1996.[5]

Elżbieta Sikora đã soạn nhạc cho các vở opera Ariadna (1977),[6] Derrière son Double (1983),[3] L'arrache-coeur (1992) và Madame Curie (2011).[1] Bà cũng đã soạn nhạc cho các vở ba-lê Blow-up (1980),[7] Waste Land (1983),[8] La Clef De Verre (1986).[3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Pendle, Karin (2001). Women & music: a history. Indiana University Press. tr. 293–294. ISBN 978-0-253-21422-5.
  2. ^ Pendle, Karin (2001). Women & music: a history. Indiana University Press. tr. 2310. ISBN 978-0-253-21422-5.
  3. ^ a b c d Sadie, Julie Anne (1994). The Norton/Grove dictionary of women composers. W. W. Norton. tr. 424. ISBN 978-0-393-03487-5.
  4. ^ “Sto lat w auli”. Gazeta Wyborcza. ngày 1 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2009.
  5. ^ “Muzyka ponad granicami”. Gazeta Wyborcza. ngày 2 tháng 8 năm 1996. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2009.
  6. ^ Sadie, Stanley; Christina Bashford (1992). The New Grove dictionary of opera. Grove's Dictionaries of Music. tr. 603. ISBN 978-0-935859-92-8.
  7. ^ Cohen, Aaron I. (1987). International encyclopedia of women composers. Books & Music USA. tr. 642. ISBN 978-0-9617485-1-7.
  8. ^ “Dla Sikory”. Gazeta Wyborcza. ngày 3 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2009.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Chongyun: Giải mã cuộc đời
Chongyun: Giải mã cuộc đời
Chắc ai cũng biết về Chongyun ngây thơ và đáng yêu này rồi
Một chút đọng lại về
Một chút đọng lại về " Chiến binh cầu vồng"
Nội dung cuốn sách là cuộc sống hàng ngày, cuộc đấu tranh sinh tồn cho giáo dục của ngôi trường tiểu học làng Muhammadiyah với thầy hiệu trưởng Harfan
Giới thiệu Cosmo the Space Dog trong MCU
Giới thiệu Cosmo the Space Dog trong MCU
Chú chó vũ trụ Cosmo cuối cùng cũng đã chính thức gia nhập đội Vệ binh dải ngân hà trong Guardians of the Galaxy
Review game Kena: Bridge of Spirits
Review game Kena: Bridge of Spirits
Kena: Bridge of Spirits là một tựa game indie được phát triển bởi một studio Mỹ mang tên Ember Lab - trước đây là một hãng chuyên làm phim hoạt hình 3D và đã rất thành công với phim ngắn chuyển thể từ tựa game huyền thoại Zelda