Emil Zátopek

Emil Zátopek
Zátopek năm 1951
Thông tin cá nhân
Biệt danhŤopek[1]
Dân tộcNgười Morava
Sinh(1922-09-19)19 tháng 9, 1922
Kopřivnice, Morava, Tiệp Khắc
Mất22 tháng 11 năm 2000(2000-11-22) (78 tuổi)
Praha, Cộng hòa Séc
Cao1,82 m
Nặng72 kg (159 lb)
Thể thao
Môn thể thaoChạy đường dài
Câu lạc bộTJ Gottwaldov, Zlín
Dukla Praha
Thành tích và danh hiệu
Thành tích cá nhân tốt nhất5.000 mét: 13:57.0[2]
10.000 mét: 28:54.2[2]
Marathon: 2:23:04[2]

Emil Zátopek (19 tháng 9 năm 1922 - 22 tháng 11 năm 2000) là một vận động viên chạy đường dài của Tiệp Khắc, nổi tiếng qua việc giành ba huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1952Helsinki, Phần Lan. Ông đã giành được huy chương vàng đường chạy 5.000 mét và 10.000 mét, nhưng tấm huy chương thứ ba chỉ đến khi vào phút chót ông đã quyết định tham gia chạy marathon lần đầu tiên trong đời. Ông có biệt danh là "Đầu máy của Séc".

Năm 1954, Zátopek là người chạy đầu tiên phá vỡ mốc 29 phút trên đường chạy 10.000 mét. Ba năm trước đó, vào năm 1951, ông đã phá vỡ kỷ lục thời gian khi thi chạy 20 km. Ông được coi là một trong những vận động viên vĩ đại nhất của thế kỷ 20 và cũng được biết đến với phương pháp huấn luyện vô cùng hà khắc. Ông là người khởi xướng phương pháp "huấn luyện xen kẽ" và "huấn luyện thôi miên".[3]

Tháng 2 năm 2013, tạp chí Runner's World Magazine đã chọn ông là Vận động viên điền kinh vĩ đại thứ hai mọi thời đại.[4] Ông là người duy nhất giành được huy chương vàng 5.000 mét (24 tháng 7 năm 1952), 10.000 mét (20 tháng 7 năm 1952) và marathon (27 tháng 7 năm 1952) trong cùng một kỳ Thế vận hội.[5][6][7]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Askwith, Richard (ngày 21 tháng 4 năm 2016). “Today We Die a Little: Emil Zátopek, Olympic Legend to Cold War Hero”. Random House – qua Google Books.
  2. ^ a b c Evans, Hilary; Gjerde, Arild; Heijmans, Jeroen; Mallon, Bill. “Emil Zátopek”. Thế vận hội tại Sports-Reference.com. Sports Reference LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019.
  3. ^ “Emil Zatopek: The Greatest Champion? – General – Runner's World”. Runnersworld.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2014.
  4. ^ “Greatest Runner” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2014.
  5. ^ “Athletics at the 1952 Helsinki Summer Games: Men's 5,000 metres”. Olympics at Sports-Reference.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2018.
  6. ^ “Athletics at the 1952 Helsinki Summer Games: Men's 10,000 metres”. Olympics at Sports-Reference.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2018.
  7. ^ “Athletics at the 1952 Helsinki Summer Games: Men's Marathon”. Olympics at Sports-Reference.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2018.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
Trinity in Tempest mang đến cho độc giả những pha hành động đầy kịch tính, những môi trường phong phú và đa dạng, cùng với những tình huống hài hước và lôi cuốn
Tổng quan về sức mạnh Titan trong Shingeki no Kyojin
Tổng quan về sức mạnh Titan trong Shingeki no Kyojin
Sức mạnh Titan (巨人の力 Kyojin no Chikara) là khả năng cho phép một người Eldia biến đổi thành một trong Chín Titan
Review và Cảm nhận “Một thoáng ra rực rỡ ở nhân gian”
Review và Cảm nhận “Một thoáng ra rực rỡ ở nhân gian”
Đây là cuốn sách nhưng cũng có thể hiểu là một lá thư dài 300 trang mà đứa con trong truyện dành cho mẹ mình - một người cậu rất rất yêu
Mối quan hệ giữa Itadori, Fushiguro, Kugisaki được xây dựng trên việc chia sẻ cùng địa ngục tội lỗi
Mối quan hệ giữa Itadori, Fushiguro, Kugisaki được xây dựng trên việc chia sẻ cùng địa ngục tội lỗi
Akutami Gege-sensei xây dựng nhân vật rất tỉ mỉ, nhất là dàn nhân vật chính với cách lấy thật nhiều trục đối chiếu giữa từng cá thể một với từng sự kiện khác nhau