Diếp quăn endive (/ˈɛndaɪv, -dɪv, ˈɑːndiːv/)[1] là rau ăn lá thuộc giống Cichorium, các loại rau ăn lá có vị đắng nhẫn tương tự khác cũng thuộc giống thực vật này. Kể ra có Cichorium endivia (diếp quăn endive), Cichorium pumilum (diếp quăn mọc dại), và Cichorium intybus (cải ô rô). Cải ô rô bao gồm các loại như diếp quăn radicchio, diếp quăn puntarelle, và diếp quăn Bỉ.
Rất dễ lầm lẫn giữa hai loài Cichorium endivia và Cichorium intybus với nhau.[2][3]
Thứ lá hẹp, lá bao ngoài có bản hẹp, xanh lá đậm và quắn (C. endivia var crispum) hay được gọi là frisée trong tiếng Anh. Ở Mỹ nó còn có tên chicorée frisée mượn cách gọi từ tiếng Pháp. Đến đây lại gây lầm lẫn thêm nữa do frisée còn chỉ cách chế biến rau ăn lá trộn với dầu cho dập và thấm vị.
Thứ lá rộng tên thường gọi là escarole (C. endivia var latifolia), lá bao ngoài bản rộng, xanh lá lợt, vị ít đắng hơn các thứ khác. Các tên gọi khác còn có diếp quăn bản rộng, diếp quăn Bavaria, diếp quăn Batavia, grumolo, scarola, và scarole. Chế biến như các loại rau ăn lá khác như xào, nấu canh, hầm hoặc trộn xà lách.
Bối cảnh rơi vào khoảng thời gian khoảng 500 năm sau cuộc khởi nghĩa nhân dân cuối cùng ở Mondstadt kết thúc, Venessa thành lập Đội Kỵ Sĩ Tây Phong để bảo vệ an toàn và duy trì luật pháp cho đất nước