Evelyn Matthei | |
---|---|
Chức vụ | |
Bộ trưởng Bộ Lao động và An sinh Xã hội | |
Nhiệm kỳ | Ngày 16 tháng 1 năm 2011 – Ngày 22 tháng 7 năm 2013 |
Tiền nhiệm | Camila Merino |
Kế nhiệm | Juan Carlos Jobet |
Thượng nghị sĩ vùng Coquimbo | |
Nhiệm kỳ | Ngày 11 tháng 3 năm 1998 – Ngày 16 tháng 1 năm 2011 |
Tiền nhiệm | Alberto Cooper Valencia |
Kế nhiệm | Gonzalo Uriarte Herrera |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 11 tháng 11, 1953 Santiago, Chile |
Tôn giáo | Công giáo |
Đảng chính trị | Liên Minh Dân chủ Độc Lập (1999–hiện tại) Chính trị gia độc lập (1993–1999) Duy tân (Trước năm 1993) |
Đảng khác | Chile Vamos (2015–hiện tại) Liên minh (Trước 2015) |
Con cái | Jorge Roberto Antonia |
Alma mater | Trường Đại học Công giáo Chile |
Chữ ký |
Evelyn Rose Matthei Fornet (sinh ngày 11 tháng 11 năm 1953) là một chính trị gia Chile, là nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động và An sinh xã hội dưới thời Tổng thống Chile Sebastián Piñera cho đến tháng 7 năm 2013[1]. Trong cuộc bầu cử năm 2013, bà là ứng cử viên của Đảng Dân chủ Độc lập. Hiện nay bà là thị trưởng khu tự quản Providencia, nhiệm kỳ 2016-2020.
Ban đầu Matthei là một giảng viên tại trường Đại học Công giáo Chile, sau đó bà chuyển sang làm quản lý tư nhân.[2] Sau khi Chile thiếu lập chế độ Dân chủ vào năm 1989, vào cuộc Bầu cử Đại biểu lần thứ 23 năm 1990, bà đã ứng cử thành công và giành được ghế nghị sĩ. Trong Quốc hội, bà giữ vị trí Đại biểu được 2 nhiệm kì, sau đó 2 lần ứng cử làm Thượng nghị sĩ. Năm 2011, bà được bổ nhiệm vào Nội các.[3]
Bên cạnh sự nghiệp chính trị, Matthei còn là một nghệ sĩ piano tài năng.[4]
Sinh ra ở Santiago de Chile, Matthei là con thứ hai của Elda Fornet Fernández và sĩ quan quân đội Fernando Matthei Aubel. Cha bà giữ chức bộ trưởng Bộ Y tế thời chính quyền Augusto Pinochet, sau đó trở thành Tổng tư lệnh của lực lượng Không quân. Ông là thành viên của Chính phủ Quân sự cho đến khi Chile thiết lập lại chế độ Dân chủ.[5] Khi còn nhỏ, gia đình Matthei khá thân thiết với gia đình Michelle Bachelet.[6]
Thời trung học, Matthei có niềm đam mê với âm nhạc, đặc biệt là đàn piano. Trong buổi tốt nghiệp, bà có ý định trở thành nghệ sĩ piano hòa nhạc. Tuy nhiên với mức lương ít ỏi của cha bà ngay cả khi ông là Đại úy của lực lượng Không quân, gia đình bà không có đủ tiền để thuê gia sư. Nhờ quá trình phấn đấu học tập, Matthei nhận được học bổng.[7] Sau lễ tốt nghiệp, bà tham gia kì thi đại học, nhưng lúc đó cha bà được bổ nhiệm làm Tùy viên Quân sự của Đại sứ quán Chile tại London. Bà quyết định theo đuổi sự nghiệp piano ở Anh. Ba năm sau, bà nhận ra rằng giấc mơ của bà không thành hiện thực: bà không thể trở thành nghệ sĩ piano hòa nhạc. Do đó bà quyết định trở về Chile.
Năm 1974, Matthei bắt đầu học tại Học viện Kinh tế thuộc Đại học Công giáo Chile. Sau 4 năm, bà nhận được bằng lincentiate về Kinh tế. Bà quyết định theo đuổi bằng cử nhân Kinh tế, đỗ bài kiểm tra vấn đáp cuối cùng, và thậm chí còn được trao giải thưởng sinh viên xuất sắc. Nhưng bà lại không tốt nghiệp được vì bà cho rằng luận án của mình đã bị đánh cắp.[5][8]
Trong khi học, Matthei làm trợ giảng và trợ lý nghiên cứu. Bà là cộng tác viên với cựu Tổng thống Sebastián Piñera trong một bài báo cáo của Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh về tình trạng nghèo đói trong khu vực. Bà cũng giúp đỡ giáo sư Hernando Cortes trong việc soạn cuốn sách giáo khoa về Lý thuyết Tiền tệ cho Viện Kinh tế của trường Đại học nơi bà đang theo học.[3]
Tổ tiên của Evelyn Matthei | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Matthei tốt nghiệp năm 1979 và trở thành giáo sư Kinh tế Quốc tế tại Học viện Kinh tế thuộc Đại học Công giáo Chile. Sau 1 năm làm nhà nghiên cứu cố vấn tư nhân thuộc tập đoàn luật Forestal, bà trở thành một nhà phân tích của Superintendencia de AFP, cơ quan quản lý lương hưu của chính phủ. Chưa đầy một năm, bà được thăng chức giám đốc.
Năm 1986, bà từ bỏ vị trí chính khách của mình để trở thành Phó giám đốc Bộ Du lịch, Thương mại và Chứng khoán của tập đoàn Bancard. Năm 1988, bà được mời làm cố vấn cho Ủy ban Kinh tế và Xã hội, và bà trở lại giảng dạy tại trường Đại học Công giáo với chức danh Giáo sư Kinh tế Nhập môn. Vào tháng 11 năm 2015, bà tuyên bố trở lại chính trường. Bà ứng cử vào vị trí quan trọng của khu tự quản Providencia trong cuộc bầu cử năm 2016.
Sự nghiệp chính trị
Cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX, Matthei tham gia chính trường Chile, sau khi Chính phủ Quân sự kiểm soát hoạt động chính trị. Bà gia nhập Đội Thanh niên Patrulla Juvenil ("Đội tuần tra Thanh niên"), một tổ chức của đảng Đổi mới Quốc gia. Một điều đáng chú ý là trong Đội Thanh niên này có Tổng thống tương lai của Chile Sebastián Piñera và thượng nghị sĩ tương lai Andrés Allamand. Bà là thành viên của Ủy ban Chính trị và sau đó đã được bầu làm Phó Tổng thống. Đảng Đổi mới Quốc gia (RN) là một đảng trung hữu, tự do - bảo thủ.
Năm 1990, bà là ứng cử viên của đảng Đổi mới Quốc gia cho chức danh Nghị sĩ quận 23. Tiếng tăm ngày càng vang xa[9], Matthei được coi là một ứng cử viên tổng thống tiềm năng cho đảng Liên minh Dân chủ và Tiến bộ trung hữu. Tuy nhiên, sau vụ bê bối bị nghe lén điện thoại (Piñeragate) năm 1993 có liên quan đến bà và đối thủ Sebastián Piñera đương nhiệm là tổng tống, bà đã bị buộc phải từ bỏ sự nghiệp tranh cử tổng thống của mình. Chán ghét cách các nhà lãnh đạo Đổi mới Quốc gia đối phó với vụ bê bối, bà đã từ chức và tiếp tục sự nghiệp chính trị của mình như một chính trị gia độc lập cho đến năm 1999.[10]
Năm 1994, bà đã chọn ứng cử vào chức vụ Nghị sĩ quận 15 thuộc thủ phủ San Antonio, giành được vị trí độc lập với sự hỗ trợ của đảng Liên minh Dân chủ Độc lập (UDI). Sau khi hoàn thành nhiệm kỳ, Matthei được bầu làm thượng nghị sĩ năm 1997, đại diện cho khu tự quản Coquimbo, và được tái đắc cử vào năm 2005. Năm 1999, bà gia nhập đảng Liên minh Dân chủ Độc lập. Là thượng nghị sĩ, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên chủ trì Ủy ban Giám sát và Ngân sách Thượng viện. Tháng 1 năm 2011, Matthei đã thôi làm Thượng nghị sĩ khi được Tổng thống Sebastián Piñera bổ nhiệm làm Bộ trưởng Lao động và An sinh xã hội.[11]
Với tư cách là Bộ trưởng, Matthei rất nổi tiếng với tính cách khá nhiệt huyết và là trung tâm của nhiều cuộc trao đổi sôi nổi với các thành viên của cả đảng Liên minh cầm quyền và phe đối lập.[12] Quan điểm tương đối tự do[13] của bà về việc nạo phá thai, hôn nhân đồng giới và cải cách thuế đã tạo nên sự rạn nứt giữa Matthei với chính đảng của bà. Tháng 3 năm 2013, bà tâm sự rằng bà sẽ quyết tâm từ bỏ chính trị sau khi hoàn thành nhiệm kỳ làm Bộ trưởng.[14]
Vào ngày 17 tháng 7, ứng cử viên cho chức tổng thống của Đảng UDI Pablo Longueira đã từ chức vì lý do sức khỏe. Ba ngày sau, Ủy ban Chính trị của đảng đã nhất trí tuyên bố Evelyn Matthei là ứng cử viên tổng thống mới của Đảng, tham gia vào cuộc bầu cử vào tháng 11.[15] Ngày 15 tháng 12 năm 2013, bà đã thua ứng cử viên Michelle Bachelet của đảng đối lập trong cuộc bầu cử tổng thống (38% và 62%).
Evelyn Matthei kết hôn với nhà kinh tế, cựu Phó Thống đốc Ngân hàng Trung ương Chile, ông Jorge Desormeaux và có ba người con. Bà là một nghệ sĩ piano được đào tạo khá bài bản. Bà nói thành thạo 3 thứ tiếng: tiếng Tây Ban Nha (tiếng mẹ đẻ), tiếng Anh và tiếng Đức.[16]
Nghĩ sĩ quận 23 (Las Condes, Vitacura và Lo Barnechea), Santiago Vùng Metropolitan[17]
Ứng cử viên | Đảng | Số phiếu | % | Kết quả |
Evelyn Matthei Fornet | RN | 79,595 | 42.32 | Nghị sĩ |
Eliana Caraball Martínez | DC | 49,961 | 26.56 | Nghị sĩ |
Joaquín Lavín Infante | UDI | 36,379 | 19.34 | |
Guido Girardi Lavín | PPD | 16,318 | 8.68 | |
José Miguel Ureta Rojas | ILE | 3,772 | 2.01 | |
Patricio Hidalgo Marín | AN | 1,116 | 0.59 | |
Jorge Martínez Rodríguez | ILF | 956 | 0.51 |
Nghị sĩ quận 15 (San Antonio), Vùng Valparaíso[18]
Ứng cử viên | Đảng | Số phiếu | % | Kết quả |
Samuel Venegas Rubio | PDC | 30,174 | 39.85 | Nghị sĩ |
Evelyn Matthei Fornet | ILB | 19,572 | 25.85 | Nghị sĩ |
Gonzalo Yuseff Sotomayor | RN | 10,950 | 14.46 | |
Julio Stuardo González | PS | 6,719 | 8.87 | |
Cosme Caracciolo Alvarez | PC | 3,858 | 5.10 | |
Mireya Baltra Moreno | PC | 3,802 | 5.02 | |
Jorge Blaessinger Lobos | IND | 645 | 0.85 |
Thượng nghị sĩ (Vùng Coquimbo)[19]
Ứng cử viên | Đảng | Số phiếu | % | Kết quả |
Jorge Pizarro Soto | PDC | 82,598 | 38.30 | Thượng nghị sĩ |
Evelyn Matthei Fornet | ILB | 50,281 | 23.32 | Thượng nghị sĩ |
Erich Schnake Silva | PPD | 40,728 | 18.89 | |
Eugenio Munizaga Rodríguez | RN | 33,612 | 15.59 | |
Gonzalo Garcia-Huidobro Severin | PH | 8,439 | 3.91 |
Thượng nghị sĩ (Vùng Coquimbo)[20]
Ứng cử viên | Đảng | Số phiếu | % | Kết quả |
Jorge Pizarro Soto | PDC | 101,671 | 40.37 | Thượng nghị sĩ |
Evelyn Matthei Fornet | UDI | 71,697 | 28.47 | Thượng nghị sĩ |
Jorge Arrate Mac-Niven | PS | 48,931 | 19.43 | |
Arturo Longton Guerrero | RN | 12,571 | 4.99 | |
Luis Aguilera González | PC | 10,607 | 4.21 | |
Joaquín Arduengo Naredo | PH | 6,384 | 2.53 |
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên congress
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên TerceraPiano
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên longway2
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên proclamation2