Explorer 4

Explorer 4
Explorer 4
Dạng nhiệm vụKhoa học Trái Đất
Nhà đầu tưArmy Ballistic Missile Agency
Định danh Harvard1958 Epsilon 1
COSPAR ID1958-005A
Số SATCAT00009
Thời gian nhiệm vụ71 days
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ
Nhà sản xuấtPhòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực
Khối lượng phóng25,50 kilôgam (56,2 lb)
Bắt đầu nhiệm vụ
Ngày phóngKhông nhận diện được ngày tháng. Năm phải gồm 4 chữ số (để 0 ở đầu nếu năm < 1000).  UTC
Tên lửaJuno I
Địa điểm phóngTrạm không quân Mũi Canaveral Cape Canaveral Air Force Station Launch Complex 5
Kết thúc nhiệm vụ
Lần liên lạc cuốingày 5 tháng 10 năm 1958 (ngày 5 tháng 10 năm 1958)
Ngày kết thúcngày 23 tháng 10 năm 1959
Các tham số quỹ đạo
Hệ quy chiếuGeocentric orbit
Chế độMedium Earth orbit
Bán trục lớn7.616,2 kilômét (4.732,5 mi)
Độ lệch tâm quỹ đạo0.1279360055923462
Cận điểm263 kilômét (163 mi)
Viễn điểm2.213 kilômét (1.375 mi)
Độ nghiêng50.29999923706055 degrees
Chu kỳ110.20 minutes
Kinh độ điểm mọc82.42 degrees
Acgumen của cận điểm57.72 degrees
Độ bất thường trung bình303.52 degrees
Chuyển động trung bình15.52
Kỷ nguyênngày 2 tháng 10 năm 1959, 06:53:14 UTC
Số vòng6070
Chương trình Explorer
 

Explorer 4 là một vệ tinh của Hoa Kỳ được phóng vào ngày 26 tháng 7 năm 1958. Nó được thiết kế bởi nhóm của Tiến sĩ James van Allen. Cơ quan dự án nghiên cứu tiên tiến của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã lên kế hoạch cho hai vệ tinh được phóng lên với mục đích nghiên cứu vành đai bức xạ Van Allen và ảnh hưởng của vụ nổ hạt nhân lên các vành đai này (và từ trường Trái Đất nói chung). Tuy vậy Explorer 4 là vệ tinh duy nhất trong kế hoạch được phóng lên vì vệ tinh còn lại, Explorer 5, bị lỗi khi phóng lên.

Explorer 4 là một vệ tinh hình trụ được thiết kế để thực hiện các phép đo chi tiết đầu tiên của các hạt tích điện (protonelectron) bị mắc kẹt trong các vành đai bức xạ trên mặt đất.

Nhiệm vụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Được phóng từ một tên lửa Juno I, nhiệm vụ này được giữ bí mật trước công chúng trong sáu tháng.[1]

Thông tin từ vệ tinh được phân tích cho ba cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Operation Argus ở độ cao lớn.

Một chuyển động bất ngờ của vệ tinh khiến việc giải thích dữ liệu của máy thăm dò rất khó khăn. Máy phát công suất thấp và máy phát hiện sóng bằng nhựa đã ngừng làm việc vào ngày 3 tháng 9 năm 1958. Hai ống Geiger-Müller và máy dò tinh thể iodide tiếp tục hoạt động bình thường cho đến ngày 19 tháng 9 năm 1958. Máy phát công suất cao ngừng gửi tín hiệu vào ngày 5 tháng 10 năm 1958. Người ta tin rằng sự cạn kiệt của pin điện đã gây ra những việc này. Tàu vũ trụ này bị rời quỹ đạo và rơi trở lại vào khí quyển Trái Đất sau 454 ngày vào ngày 23 tháng 10 năm 1959.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Herlihy, Ed (Narrator). Project Argus — "Greatest Experiment": 3 A-Blasts In Space (video). Universal International News. Sự kiện xảy ra vào lúc 29s. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2012. To monitor the radiation shell in outer space, the satellite Explorer 4 was launched. And all of this in a secrecy not broken for six months.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Vì Sukuna đã bành trướng lãnh địa ngay lập tức, Angel suy luận rằng ngay cả Sukuna cũng có thể tái tạo thuật thức bằng phản chuyển
Tóm tắt chương 222: Điềm báo - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 222: Điềm báo - Jujutsu Kaisen
Mở đầu chương là cảnh Uraume đang dâng lên cho Sukuna 4 ngón tay còn lại. Chỉ còn duy nhất một ngón tay mà hắn chưa ăn
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Bài viết sẽ tiết lộ nội dung truyện tuy nhiên thì các bạn chắc cũng biết luôn rồi: Gojo Satoru quay trở lại
Nhân vật Izana Kurokawa trong Tokyo Revengers
Nhân vật Izana Kurokawa trong Tokyo Revengers
Izana là một người đàn ông mang nửa dòng máu Philippines, nửa Nhật Bản, có chiều cao trung bình với đôi mắt to màu tím, nước da nâu nhạt và mái tóc trắng ngắn thẳng được tạo kiểu rẽ ngôi giữa