Trong sự nghiệp của mình, Galton viết trên 340 bài báo và sách. Ông cũng là người sáng tạo ra khái niệm hệ số tương quan trong thống kê và phát triển hồi quy về điểm trung bình. Ông là người đầu tiên áp dụng các phương pháp thống kê đối với nghiên cứu về sự khác biệt của con người và tính di truyền của trí thông minh, ông giới thiệu việc sử dụng bảng hỏi và khảo sát nhằm thu thập dữ liệu với con người.
Francis Galton là nhà tiên phong của thuyết ưu sinh và là người đã đặt tên thuyết ưu sinh (tiếng Anh: eugenics). Ông cũng là người sáng lập ra ngành trắc nghiệm học tâm lý. Ông phát minh ra phương pháp phân loại dấu vân tay, đóng vai trò hữu dụng đối với khoa học pháp lý.
Với tư cách là một trong những nhà tiên phong của ngành khí tượng học, Galton đã phát minh ra bản đồ thời tiết, đề xuất một lý thuyết về vùng xoáy nghịch và là người đầu tiên lập ra một bản ghi chép hoàn chỉnh các hiện tượng khí hậu ngắn hạn trên bình diện châu Âu.[1]
Ewen, Stuart and Elizabeth Ewen (2006; 2008) "Nordic Nightmares," pp. 257–325 in Typecasting: On the Arts and Sciences of Human Inequality, Seven Stories Press. ISBN 978-1-58322-735-0
Galton, Francis (1909). Memories of My Life:. New York: E. P. Dutton and Company.
Gillham, Nicholas Wright (2001). A Life of Sir Francis Galton: From African Exploration to the Birth of Eugenics, Oxford University Press. ISBN 0-19-514365-5
Daniëlle Posthuma, Eco J. C. De Geus, Wim F. C. Baaré, Hilleke E. Hulshoff Pol, René S. Kahn & Dorret I. Boomsma (2002). “The association between brain volume and intelligence is of genetic origin”. Nature Neuroscience. 5 (2): 83–84. doi:10.1038/nn0202-83. PMID11818967.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Quinche, Nicolas, Crime, Science et Identité. Anthologie des textes fondateurs de la criminalistique européenne (1860–1930). Genève: Slatkine, 2006, 368p., passim.
Galton's Complete Works at Galton.org (including all his published books, all his published scientific papers, and popular periodical and newspaper writing, as well as other previously unpublished work and biographical material).
Mình sở hữu chiếc túi designer bag đầu tiên cách đây vài năm, lúc mình mới đi du học. Để mà nói thì túi hàng hiệu là một trong những ''life goals" của mình đặt ra khi còn bé