Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2023

  Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2023
Thông tin[1]
Chặng đua thứ 14 trong tổng số 22 chặng của Giải đua xe Công thức 1 2023
Hình dạng trường đua Monza
Ngày tháng 3 tháng 9 năm 2023
Tên chính thức Formula 1 Pirelli Gran Premio d'Italia 2023
Địa điểm Trường đua Monza
Monza, Ý
Thể loại cơ sở đường đua Trường đua xây dựng cố định
Chiều dài đường đua 5,793 km
Chiều dài chặng đua 51 vòng, 295,134 km
Chiều dài dự kiến 53 vòng, 306,720 km
Thời tiết Nắng
Số lượng khán giả 304.134[2]
Vị trí pole
Tay đua Ferrari
Thời gian 1:20,294 phút
Vòng đua nhanh nhất
Tay đua Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes
Thời gian 1:25,072 phút ở vòng thứ 43
Bục trao giải
Chiến thắng Red Bull Racing-Honda RBPT
Hạng nhì Red Bull Racing-Honda RBPT
Hạng ba Ferrari

Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2023 (tên chính thức là Formula 1 Pirelli Gran Premio d'Italia 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 2023 tại trường đua Monza, Ý, và là chặng đua thứ 14 của giải đua xe Công thức 1 2023.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Ferrari tham gia chặng đua quê nhà của đội với màu sơn đặc biệt có các điểm nhấn màu vàng.[3] Alfa Romeo cũng xuất hiện với màu sơn đặc biệt với lá cờ Ý.[4]

Bảng xếp hạng trước cuộc đua

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan, Max Verstappen dẫn đầu trước Sergio Pérez (201 điểm) và Fernando Alonso (168 điểm) trong bảng xếp hạng các tay đua với 339 điểm. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu trước Mercedes (255 điểm) và Aston Martin (215 điểm) với 540 điểm.

Lựa chọn bộ lốp

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà cung cấp lốp xe Pirelli cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.

Thay đổi tay đua

[sửa | sửa mã nguồn]

Liam Lawson tiếp tục thay thế tay đua AlphaTauri Daniel Ricciardo tại cuộc đua này sau khi xương bàn tay trái của Ricciardo bị gãy trong buổi tập thứ hai của chặng đua trước đó ở Hà Lan. Felipe Drugovich tiếp quản chiếc xe đua Aston Martin của Lance Stroll trong buổi tập đầu tiên.[5]

Tường thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Buổi tập

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong buổi tập đầu tiên, Felipe Drugovich tiếp quản chiếc xe đua Aston Martin của Lance Stroll.[5] Verstappen lập thời gian nhanh nhất với 1:22,657 phút trước Carlos Sainz jr.Sergio Pérez.[6]

Trong buổi tập thứ hai, Sainz jr. lập thời gian nhanh nhất với 1:21,355 phút trước Lando Norris và Pérez.[7]

Trong buổi tập thứ ba, Sainz jr. lập thời gian nhanh nhất với 1:20,912 phút trước Verstappen và Lewis Hamilton.[8]

Vòng phân hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian chạy 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất phần này. Sau khi Q1 kết thúc, Chu Quán Vũ, cả hai tay đua Alpine, Kevin Magnussen và Stroll bị loại.

Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba của vòng phân hạng. Verstappen là tay đua nhanh nhất phần này. Sau khi Q2 kết thúc, cả hai tay đua AlphaTauri, Nico Hülkenberg, Valtteri BottasLogan Sargeant bị loại.

Phần cuối cùng (Q3) kéo dài mười hai phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn. Carlos Sainz jr. giành vị trí pole với thời gian là 1:20,294 phút trước Max VerstappenCharles Leclerc. Đây là vị trí pole đầu tiên của Sainz jr. trong mùa giải này và cũng là vị trí pole thứ tư trong sự nghiệp Công thức 1 của anh.[9]

Cuộc đua

[sửa | sửa mã nguồn]

Vòng đua đội hình xuất phát bị gián đoạn sau khi chiếc xe của Yuki Tsunoda bị hỏng trên đường đua. Ban đầu, các tay đua được lập thêm một vòng đua đội hình xuất phát bổ sung trước khi thời gian trễ 20 phút. Trong thời gian này, các thành viên trong đội pit của các đội đã ra đường đua. Vòng đội hình thứ ba được tổ chức trước khi cuộc đua bắt đầu. Vì hai vòng đội hình đột xuất đã diễn ra nên khoảng cách cuộc đua đã giảm đi hai vòng.

Carlos Sainz Jr. đã có một khởi đầu thuận lợi từ vị trí pole và anh cầm chân Verstappen trong 14 vòng đua đầu tiên. Ở vòng đua thứ 15, Sainz đã phanh gấp ở khúc cua đầu tiên và Verstappen chiếm lấy vị trí dẫn đầu từ tay anh. Verstappen dẫn đầu cuộc đua trong năm vòng tiếp theo cho đến khi anh vào làn pit để đổi lốp. Trong khi đó, George Russell và Pérez tranh giành vị trí thứ tư sau Leclerc. Ở vòng 14, Pérez đã vượt qua được Russell ở khúc cua đầu tiên, nhưng cả hai xe đều trượt khúc cua và Pérez phải giả lại vị trí cho Russell. Sau khi Russell vào làn pit để đổi lốp, anh vượt qua Esteban Ocon trái phép khi vượt qua từ phía bên ngoài đường đua ở khúc cua đầu tiên. Do vậy, Russell đã bị phạt 5 giây.

Ở vòng đua thứ 41, Lewis Hamilton đã phanh gấp và mắc lỗi khi vượt qua Oscar Piastri.[10] Lỗi này khiến anh cắt ngang Piastri trong vùng phanh ở khúc cua số 4. Sau vụ va chạm này, mũi xe của Piastri bị hư hỏng và anh phải vào làn pit đột xuất để thay thế mũi xe và đổi lốp. Hamilton nhận một án phạt 5 giây vì vụ va chạm này nhưng anh ấy đã có đủ khoảng cách so với Alexander Albon ở những vòng đua cuối cùng để tránh mất bất kỳ vị trí nào khi án phạt được áp dụng. Hamilton dễ dàng vượt qua Albon, người đang bảo vệ vị trí của mình trước Lando Norris. Trong khi đó, Sainz mất vị trí thứ hai vào tay Pérez sau khi bị Pérez vượt qua. Khi cuộc đua sắp kết thúc, Leclerc phanh gấp hai lần và suýt va chạm với Sainz.

Sau khi cuộc đua kết thúc, Verstappen giành chiến thắng giải đua ô tô Công thức 1 Ý lần thứ hai liên tiếp trong sự nghiệp Công thức 1 của mình. Với mười chiến thắng liên tiếp kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Miami, anh chính thức phá kỷ lục chín chiến thắng liên tiếp của Sebastian Vettel vào năm 2013. Thêm vào đó, Red Bull Racing đã kéo dài kỷ lục số lần chiến thắng liên tiếp của một đội đua lên con số thứ 15 kể từ khi họ đã giành chiến thắng mọi cuộc đua kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2022.[11] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua này là Leclerc, Russell, Hamilton, Albon, Norris, Fernando AlonsoValtteri Bottas.

Kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Vòng phân hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Vị trí Số xe Tay đua Đội đua Q1 Q2 Q3 Thay đổi
vị trí
1 55 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari 1:21,965 1:20,991 1:20,294 01
2 1 Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT 1:21,573 1:20,937 1:20,307 02
3 16 Monaco Charles Leclerc Ferrari 1:21,788 1:20,977 1:20,361 03
4 63 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 1:22,148 1:21,382 1:20,671 04
5 11 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 1:21,911 1:21,240 1:20,688 05
6 23 Thái Lan Alexander Albon Williams-Mercedes 1:21,661 1:21,272 1:20,760 06
7 81 Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes 1:22,106 1:21,527 1:20,785 07
8 44 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 1:21,977 1:21,369 1:20,820 08
9 4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 1:21,995 1:21,581 1:20,979 09
10 14 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 1:22,043 1:21,543 1:21,417 10
11 22 Nhật Bản Yuki Tsunoda AlphaTauri-Honda RBPT 1:21,852 1:21,594 11
12 40 New Zealand Liam Lawson AlphaTauri-Honda RBPT 1:22,112 1:21,758 12
13 27 Đức Nico Hülkenberg Haas-Ferrari 1:22,343 1:21,776 13
14 77 Phần Lan Valtteri Bottas Alfa Romeo-Ferrari 1:22,249 1:21,940 14
15 2 Hoa Kỳ Logan Sargeant Williams-Mercedes 1:21,930 1:21,944 15
16 24 Trung Quốc Chu Quán Vũ Alfa Romeo-Ferrari 1:22,390 16
17 10 Pháp Pierre Gasly Alpine-Renault 1:22,545 17
18 31 Pháp Esteban Ocon Alpine-Renault 1:22,548 18
19 20 Đan Mạch Kevin Magnussen Haas-Ferrari 1:22,592 19
20 18 Canada Lance Stroll Aston Martin Aramco-Mercedes 1:22,860 20
Thời gian 107%: 1:27,283

Cuộc đua

[sửa | sửa mã nguồn]
Vị trí Số xe Tay đua Đội đua Số vòng1 Thời gian/
Bỏ cuộc
Thay đổi
vị trí
Số điểm
1 1 Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT 51 1:13:41,143 2 25
2 11 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 51 + 6,064 5 18
3 55 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari 51 + 11,193 1 15
4 16 Monaco Charles Leclerc Ferrari 51 + 11,377 3 12
5 63 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 51 + 23,0282 4 10
6 44 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 51 + 42,6793 8 8
7 23 Thái Lan Alexander Albon Williams-Mercedes 51 + 45,106 6 6
8 4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 51 + 45,449 9 4
9 14 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 51 + 46,294 10 2
10 77 Phần Lan Valtteri Bottas Alfa Romeo-Ferrari 51 + 1:04,056 14 1
11 40 New Zealand Liam Lawson AlphaTauri-Honda RBPT 51 + 1:10,638 12
12 81 Úc Oscar Piastri McLaren-Mercedes 51 + 1:13,0744 7
13 2 Hoa Kỳ Logan Sargeant Williams-Mercedes 51 + 1:18,5575 15
14 24 Trung Quốc Chu Quán Vũ Alfa Romeo-Ferrari 51 +1:20,164 16
15 10 Pháp Pierre Gasly Alpine-Renault 51 + 1:22,510 17
16 18 Canada Lance Stroll Aston Martin Aramco-Mercedes 51 + 1:27,266 20
17 27 Đức Nico Hülkenberg Haas-Ferrari 50 + 1 vòng 13
18 20 Đan Mạch Kevin Magnussen Haas-Ferrari 50 + 1 vòng 19
Bỏ cuộc 31 Pháp Esteban Ocon Alpine-Renault 39 Vô lăng 18
Không xuất

phát

22 Nhật Bản Yuki Tsunoda AlphaTauri-Honda RBPT Động cơ 6
Vòng đua nhanh nhất: Úc Oscar Piastri (McLaren-Mercedes) – 1:25,072 (vòng đua thứ 43)
Tay đua xuất sắc nhất cuộc đua: Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. (Ferrari), 31,5% số phiếu bầu[12]

Chú thích:

  • ^1 – Số vòng cuộc đua (dự kiến ​​là 53 vòng) bị rút ngắn xuống còn 51 vòng do thủ tục xuất phát bị hủy bỏ.[13]
  • ^2George Russell nhận một án phạt 5 giây sau cuộc đua vì đi chệch khỏi làn đua và mang lại lợi thế cho mình. Vị trí về đích của anh không bị thay đổi.[13]
  • ^3Lewis Hamilton nhận một án phạt 5 giây sau cuộc đua vì gây ra vụ va chạm với Oscar Piastri. Vị trí về đích của anh không bị thay đổi.[13]
  • ^4Oscar Piastri về đích ở vị trí thứ 11 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 12 sau sau khi nhận một án phạt 5 giây sau cuộc đua vì đi chệch khỏi làn đua và mang lại lợi thế cho mình.[13]
  • ^5Logan Sargeant nhận một án phạt 5 giây sau cuộc đua vì gây ra vụ va chạm với Valtteri Bottas. Vị trí về đích của anh không bị thay đổi.[13]
  • ^6Yuki Tsunoda đã không thể tham gia cuộc đua do động cơ bị hỏng trong vòng đua đội hình xuất phát. Vị trí xuất phát của anh ấy đã bị bỏ trống.[13]

Bảng xếp hạng sau cuộc đua

[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng xếp hạng các tay đua

[sửa | sửa mã nguồn]
Vị trí Tay đua Đội đua Số điểm Thay đổi
vị trí
1 Hà Lan Max Verstappen Red Bull Racing-Honda RBPT 364 +/-0
2 México Sergio Pérez Red Bull Racing-Honda RBPT 219 +/-0
3 Tây Ban Nha Fernando Alonso Aston Martin Aramco-Mercedes 170 +/-0
4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton Mercedes 164 +/-0
5 Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr. Ferrari 117 +/-0
6 Monaco Charles Leclerc Ferrari 111 +/-0
7 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland George Russell Mercedes 109 +/-0
8 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lando Norris McLaren-Mercedes 79 +/-0
9 Canada Lance Stroll Aston Martin Aramco-Mercedes 47 +/-0
10 Pháp Pierre Gasly Alpine-Renault 37 +/-0
  • Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này.

Bảng xếp hạng các đội đua

[sửa | sửa mã nguồn]
Vị trí Đội đua Số điểm Thay đổi
vị trí
1 Áo Red Bull Racing-Honda RBPT 583 +/-0
2 Đức Mercedes 273 +/-0
3 Ý Ferrari 228 1
4 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Aston Martin Aramco-Mercedes 217 1
5 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland McLaren-Mercedes 115 +/-0
6 Pháp Alpine-Renault 73 +/-0
7 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Williams-Mercedes 21 +/-0
8 Hoa Kỳ Haas-Ferrari 11 +/-0
9 Thụy Sĩ Alfa Romeo-Ferrari 10 +/-0
10 Ý AlphaTauri-Honda RBPT 3 +/-0

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Italian Grand Prix 2023 – F1 Race”. formula1.com. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2023.
  2. ^ “I numeri del Gran Premio di Monza”. Monzatoday.it (bằng tiếng Ý). 4 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2023.
  3. ^ Lischka, Joel (30 tháng 8 năm 2023). “Spezial-Lackierung für Monza: Ferrari in Gelb-Rot zum Heimspiel”. auto motor und sport (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
  4. ^ Lischka, Joel (31 tháng 8 năm 2023). “Alfa-Spezial-Lackierung für Monza: Italien-Trikolore für Alfa Romeo”. auto motor und sport (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
  5. ^ a b “Aston Martin reserve Drugovich set for FP1 outing at Italian GP | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
  6. ^ “Großer Preis von Italien 2023 in Monza: Ergebnis 1. Freies Training”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
  7. ^ “Großer Preis von Italien 2023 in Monza: Ergebnis 2. Freies Training”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
  8. ^ “Großer Preis von Italien 2023 in Monza: Ergebnis 3. Freies Training”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
  9. ^ “Sainz pips Verstappen and Leclerc to pole for Italian GP”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2023.
  10. ^ Becker, Florian (3 tháng 9 năm 2023). “Piastri's Rennen versaut: Gentleman Hamilton sagt Sorry”. Motorsport-Magazin.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2023.
  11. ^ “Verstappen charges to record-breaking 10th successive F1 win”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2023.
  12. ^ “Driver of the Day 2023 | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2023.
  13. ^ a b c d e f “Formula 1 Pirelli Gran Premio d'Italia 2023 – Race Result”. Formula 1® - The Official F1® Website (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chặng đua trước:
Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan 2023
Giải đua xe Công thức 1
2023
Chặng đua sau:
Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore 2023
Chặng đua trước:
Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2022
Giải đua ô tô Công thức 1 Ý Chặng đua sau:
Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2024
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan