![]() | Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Đây là hệ đo lường được dùng chính thức ở Đế quốc La Mã(31 TCN - 476 SCN)và sau đó được tiếp tục sử dụng ở khu vực Tây Âu một thời gian dài trong thời kỳ Trung Cổ.Thậm chí ở một số nơi như nước Anh,các đơn vị này vẫn được sử dụng đến tận cuối thời Phục Hưng. Học giả La Mã Balbus(mất năm 100) đã tóm tắt hệ đo lường này trong cuốn"Trình bày và tính toán đo lường" của ông[1]:
Trước thời Vespasian giá trị của 1 pes = 29,6 cm.Theo nghiên cứu từ congius của William Smith trong thời Vespasian thì từ sau năm 75 giá trị của 1 pes = 30 cm[3]
Ngoài các đơn vị đo độ dài ở trên, người La Mã thỉnh thoảng cũng thêm các tiền tố như semi(một nửa), bi(đôi)... để mô tả chính xác chiều dài một vật nào đó; chẳng hạn như trong cuốn Lịch sử La Mã, Livius đã dùng bipalme mô tả 1 mũi tên có đầu nhọn dài 2 palm (14,8 cm) và semicubitalus cho chiều dài nửa cubit (22,2 cm) của cán mũi tên[4].