Học thuyết Nixon

Nixon đang nói chuyện với Thủ tướng Israel Golda Meir và Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger vào ngày 1 tháng 11 năm 1973.

Học thuyết Nixon (đôi khi gọi là Học thuyết Guam) là học thuyết chính sách đối ngoại của Richard Nixon, Tổng thống Mỹ thứ 37 từ năm 1969 đến năm 1974. Chính Nixon đề ra học thuyết này trong cuộc họp báo ở Guam vào ngày 25 tháng 7 năm 1969,[1] và sau đó được chính thức hóa trong bài phát biểu của ông về Việt Nam hóa chiến tranh ngày 3 tháng 11 năm 1969.[2]

Theo Gregg Brazinsky, tác giả cuốn sách có nhan đề Nation Building in South Korea: Koreans, Americans, and the Making of a Democracy, Nixon tuyên bố rằng "Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ việc phòng thủ và phát triển của các đồng minh và bạn bè" nhưng không "thực hiện toàn bộ công cuộc bảo vệ các quốc gia tự do trên thế giới".[3] Học thuyết này có nghĩa là mỗi quốc gia đồng minh chịu trách nhiệm về an ninh của riêng mình nói chung, nhưng Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò như một chiếc ô hạt nhân khi được yêu cầu. Học thuyết ủng hộ việc theo đuổi hòa bình thông qua quan hệ đối tác với các đồng minh của Mỹ.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào thời điểm Tổng thống Nixon nhậm chức vào tháng 1 năm 1969, Mỹ đã tham chiến ở Việt Nam được gần 4 năm. Chiến tranh cho đến nay đã giết chết hơn 30.000 người Mỹ và hàng trăm nghìn công dân Việt Nam.[4] Đến năm 1969, dư luận Mỹ đã có động thái dứt khoát ủng hộ việc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam;[5] một cuộc thăm dò của Gallup vào tháng 5 cho thấy 56% công chúng tin rằng việc gửi quân đến Việt Nam là một sai lầm. Trong số những người trên 50 tuổi, 61% bày tỏ niềm tin đó, so với 49% những người trong độ tuổi từ 21 đến 29, ngay cả khi việc ngầm từ bỏ Hiệp ước SEATO cuối cùng là cần thiết và khiến cộng sản tiếp quản hoàn toàn Việt Nam Cộng hòa bất chấp sự bảo đảm trước đó của Mỹ.[6][cần số trang] Vì Nixon vận động cho "Hòa bình trong danh dự" liên quan đến Việt Nam trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1968, nên việc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam đã trở thành một mục tiêu chính sách quan trọng đối với ông.

Học thuyết Nixon

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một lần dừng chân trong chuyến công du quốc tế trên lãnh thổ Guam của Mỹ, Nixon đã chính thức công bố Học thuyết này.[7] Nixon tuyên bố Hoa Kỳ tôn trọng tất cả các cam kết hiệp ước của mình ở châu Á, nhưng "đối với các vấn đề liên quan đến an ninh quốc tế... Hoa Kỳ khuyến khích và có quyền kỳ vọng rằng vấn đề này sẽ ngày càng do chính các quốc gia châu Á xử lý và chịu trách nhiệm".[8]

Sau đó, từ Phòng Bầu dục trong bài phát biểu trước toàn quốc về Chiến tranh Việt Nam vào ngày 3 tháng 11 năm 1969, Nixon đã nói:[9]

Đầu tiên, Mỹ sẽ tuân thủ tất cả các cam kết trong hiệp ước của mình. Thứ hai, chúng ta sẽ cung cấp lá chắn nếu một cường quốc hạt nhân đe dọa tự do của một quốc gia liên minh với chúng ta hoặc của một quốc gia mà sự sống còn của họ mà chúng ta coi là quan trọng đối với nền an ninh của chúng ta. Thứ ba, trong những trường hợp liên quan đến các hình thức xâm lược khác, chúng ta sẽ cung cấp sự trợ giúp về mặt quân sự và kinh tế khi được yêu cầu phù hợp với các cam kết trong hiệp ước của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ nhìn vào quốc gia bị đe dọa trực tiếp đảm nhận trách nhiệm chính trong việc cung cấp nhân lực cho quốc phòng của mình.

Học thuyết trong thực tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Học thuyết này được minh họa bằng quá trình Việt Nam hóa chiến tranh liên quan đến Việt Nam Cộng hòa và Chiến tranh Việt Nam.[10] Nó cũng được áp dụng ở những nơi khác ở châu Á bao gồm Iran,[11] Đài Loan,[12] Campuchia,[13]Hàn Quốc.[14][cần số trang] Học thuyết này là sự bác bỏ rõ ràng thông lệ gửi 500.000 lính Mỹ đến Việt Nam, mặc dù không có nghĩa vụ hiệp ước nào đối với quốc gia đó. Mục tiêu dài hạn chính là giảm bớt căng thẳng giữa Mỹ với Liên XôTrung Quốc đại lục, để tạo điều kiện tốt hơn cho chính sách hòa hoãn phát huy tác dụng.[15][cần số trang]

Quốc gia châu Á cụ thể mà Học thuyết Nixon nhắm tới với thông điệp rằng các quốc gia châu Á phải chịu trách nhiệm tự bảo vệ mình là Việt Nam Cộng hòa, nhưng Shah Mohammad Reza Pahlavi của Iran đã lợi dụng Học thuyết Nixon với thông điệp rằng các quốc gia châu Á phải chịu trách nhiệm về việc phòng thủ của chính mình, hòng biện minh là người Mỹ nên bán vũ khí cho ông ta không giới hạn, một gợi ý mà Nixon háo hức đón nhận.[8] Mỹ coi Ả Rập SaudiIran là "trụ cột song sinh" cho sự ổn định khu vực.[16] Giá dầu tăng vào năm 1970 và 1971 cho phép tài trợ cho cả hai quốc gia trong việc mở rộng quân sự này. Tổng số vũ khí chuyển giao từ Hoa Kỳ sang Iran tăng từ 103,6 triệu USD năm 1970 lên 552,7 triệu USD năm 1972; sang Ả Rập Saudi đã tăng từ 15,8 triệu USD năm 1970 lên 312,4 triệu USD năm 1972. Hoa Kỳ vẫn duy trì lực lượng hải quân nhỏ gồm ba tàu tại Vùng Vịnh, đóng quân ở Bahrain kể từ Thế chiến thứ hai, nhưng không thực hiện các cam kết an ninh chính thức nào khác.[17]

Một yếu tố làm giảm các cam kết mở của Mỹ là mối lo ngại về tài chính. Việt Nam đã được chứng minh là rất tốn kém.[18][cần số trang] Tại Hàn Quốc, 20.000 trong số 61.000 lính Mỹ đồn trú ở đó đã rút lui vào tháng 6 năm 1971.

Việc áp dụng Học thuyết Nixon đã "mở các cửa xả lũ" viện trợ quân sự của Mỹ cho các đồng minh ở Vịnh Ba Tư.[19][cần số trang] Điều đó lại giúp tạo tiền đề cho Học thuyết Carter và cho sự can dự trực tiếp của quân đội Mỹ vào Chiến tranh vùng VịnhChiến tranh Iraq.[cần dẫn nguồn]

Cách sử dụng đương đại

[sửa | sửa mã nguồn]

Học giả Walter Ladwig lập luận vào năm 2012 rằng Hoa Kỳ nên áp dụng "học thuyết Nixon mới" đối với khu vực Ấn Độ Dương, qua đó Mỹ tài trợ cho các đối tác địa phương quan trọng—Ấn Độ, Indonesia, ÚcNam Phi—để đảm nhận gánh nặng chính cho việc duy trì hòa bình và an ninh khu vực. Ladwig nhận định rằng một thiếu sót quan trọng của Học thuyết Nixon ban đầu là sự phụ thuộc của nó vào các nhà độc tài thân phương Tây, họ đã chứng tỏ là nền tảng yếu kém cho một cấu trúc an ninh khu vực lâu dài. Ngược lại, "Học thuyết Nixon mới" của ông thì tập trung vào việc nuôi dưỡng các quốc gia lớn ở Ấn Độ Dương có dân chủ và có khả năng tài chính để trở thành nhà cung cấp an ninh ròng trong khu vực.[20] Dù cho rằng ý tưởng này mang lại "sự cân bằng hợp lý mà nó đem đến giữa sự lãnh đạo của Hoa Kỳ và sáng kiến ​​địa phương", nhưng Andrew Philips thuộc Viện Chính sách Chiến lược Úc cho rằng ý tưởng này đã phóng đại "mức độ lợi ích an ninh hội tụ giữa bốn quốc gia được cho là chủ chốt trong tiểu khu vực."[21][22]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Peters, Gerhard; Woolley, John T. “Richard Nixon: "Informal Remarks in Guam With Newsmen," July 25, 1969”. The American Presidency Project. University of California - Santa Barbara. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2014.
  2. ^ “The Nixon Doctrine in the 21st Century”. 22 tháng 7 năm 2009.
  3. ^ “Foreign Relations of the United States, 1969–1976, Volume I, Foundations of Foreign Policy, 1969–1972, Document 60”. Office of the Historian, Foreign Service Institute, United States Department of State. 18 tháng 2 năm 1970. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2019.
  4. ^ McNamara, Robert (1995). In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam. Times Books. tr. 321.
  5. ^ “Commentary”. 12 tháng 9 năm 2010.
  6. ^ Todd, Olivier. Cruel April: The Fall of Saigon. W.W. Norton & Company, 1990. (originally published in 1987 in French)
  7. ^ History Channel (25 tháng 7 năm 1969). “July 25, 1969: The Nixon Doctrine is announced” (reprint).
  8. ^ a b Karsh, Effraim Islamic Imperialism A History, New Haven: Yale University Press, 2006 page 199.
  9. ^ Richard M. Nixon (3 tháng 11 năm 1969). “President Nixon's Speech on "Vietnamization" (PDF). Bản gốc (reprint) lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2012.
  10. ^ John G. Keilers, "Nixon Doctrine and Vietnamization" (U.S. Army Military History Institute, June 29, 2007) online
  11. ^ Stephen McGlinchey, "Richard Nixon's Road to Tehran: The Making of the US–Iran Arms Agreement of May 1972." Diplomatic History 37.4 (2013): 841-860.
  12. ^ Earl C. Ravenal, "The Nixon Doctrine and Our Asian Commitments." Foreign Affairs 49.2 (1971): 201-217.
  13. ^ Laura Summers, "Cambodia: Model of the Nixon doctrine." Current History (Dec 1973) pp. 252-56.
  14. ^ Joo-Hong Nam, and Chu-Hong Nam. America's commitment to South Korea: the first decade of the Nixon doctrine (1986).
  15. ^ Robert S. Litwak, Détente and the Nixon doctrine: American foreign policy and the pursuit of stability, 1969-1976 (1986).
  16. ^ Beinart, Peter (4 tháng 1 năm 2007). “Return of the Nixon Doctrine”. TIME. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2009.
  17. ^ Gause, III, F. Gregory (19 tháng 11 năm 2009). The International Relations of the Persian Gulf. Cambridge University Press. tr. 22. ISBN 9781107469167. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2013.
  18. ^ The Gold Battles Within the Cold War: American Monetary Policy and the Defense of Europe, 1960–1963. Francis J. Gavin, University of Texas at Austin
  19. ^ Michael Klare, Blood and Oil: The Dangers and Consequences of America's Growing Petroleum Dependency (New York: Henry Holt, 2004)
  20. ^ Walter C. Ladwig III, "A Neo-Nixon Doctrine for the Indian Ocean: Helping States Help Themselves," Strategic Analysis, Vol. 36, No. 3 (May 2012).
  21. ^ Andrew Phillips, "The challenges of order-building in the Indian Ocean Region," The Strategist (October 2012).
  22. ^ “Springtime for Strongmen – Foreign Policy”.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chua, Daniel Wei Boon. (2014) "Becoming a "Good Nixon Doctrine country": Political relations between the United States and Singapore during the Nixon presidency." Australian Journal of Politics & History 60.4 (2014): 534-548.
  • Kimball, Jeffrey (2006). “The Nixon Doctrine: A Saga of Misunderstanding”. Presidential Studies Quarterly. 36 (1): 59–74. doi:10.1111/j.1741-5705.2006.00287.x.
  • Komine, Yukinori. (2014) "Whither a 'Resurgent Japan': The Nixon Doctrine and Japan's Defense Build-up, 1969–1976." Journal of Cold War Studies 16.3 (2014): 88–128.
  • Litwak, Robert S. Détente and the Nixon doctrine: American foreign policy and the pursuit of stability, 1969-1976 (CUP Archive, 1986).
  • Meiertöns, H. (2010): The Doctrines of US Security Policy — An Evaluation under International Law, Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-76648-7.
  • Nam, Joo-Hong, and Chu-Hong Nam. (1986) America's commitment to South Korea: the first decade of the Nixon doctrine (Cambridge UP, 1986).
  • Pauker, Guy J., et al. (1973) In search of self-reliance: US security assistance to the Third World under the Nixon Doctrine (RAND Corp. 1973). online
  • Ravenal, Earl C. (1971) "The Nixon doctrine and our Asian commitments." Foreign Affairs 49.2 (1971): 201–217. online
  • Trager, Frank N. (1972) "The Nixon Doctrine and Asian Policy." Southeast Asian Perspectives 6 (1972): 1-34. online

Nguồn chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Chú thuật hồi chiến 252: Quyết Chiến Tại Tử Địa Shinjuku
Chú thuật hồi chiến 252: Quyết Chiến Tại Tử Địa Shinjuku
Tiếp tục trận chiến với Nguyền Vương, tua ngược lại thời gian 1 chút thì lúc này Kusakabe và Ino đang đứng bên ngoài lãnh địa của Yuta
Khi doanh nhân âm thầm trả giá về tinh thần
Khi doanh nhân âm thầm trả giá về tinh thần
The Psychological Price of Entrepreneurship" là một bài viết của Jessica Bruder đăng trên inc.com vào năm 2013
Evil Does Not Exist: ở nơi đâu cái ác không tồn tại?
Evil Does Not Exist: ở nơi đâu cái ác không tồn tại?
Lòng tốt có tồn tại, tình yêu có tồn tại, lòng vị tha có tồn tại, nhưng cái ác lại không tồn tại.
Giới thiệu AG Meredith - The nigh unkillable Octopus
Giới thiệu AG Meredith - The nigh unkillable Octopus
Meredith gần như bất tử trên chiến trường nhờ Bubble Form và rất khó bị hạ nếu không có những hero chuyên dụng