Hồ Elementaita

Địa lý
Tọa độ0°27′N 36°15′Đ / 0,45°N 36,25°Đ / -0.450; 36.250
Quốc gia lưu vựcKenya
Diện tích bề mặt18 km²
Cao độ bề mặt1.670 mét so với mặt nước biển

Hồ Elementaita là một hồ nước ngọt nằm trong Thung lũng Tách giãn Lớn, cách khoảng 120 km về phía tây bắc của Nairobi, Kenya.

Elmenteita có nguồn gốc trong ngôn ngữ Masaai từ muteita có nghĩa là "nơi bụi bặm", một tham chiếu cho cảnh quan khô cằn và bụi bặm của khu vực, đặc biệt là giữa tháng giêng và tháng ba. Gilgil là một thị trấn nhỏ gần hồ. Elmenteita thuộc chuỗi các hồ phía Đông thung lũng Tách giãn Lớn, nó nằm giữa hai hồ NaivashaNakuru. Tuyến đường cao tốc Nairobi - Nakuru (đường A104) chạy dọc theo vách đá tạo thành cảnh quan ngoạn mục nhìn xuống hồ. Ngày nay, Elmenteita là một khu bảo tồn các loài chim mặt nước nổi tiếng, cùng với NakuruBogoria là một phần của Di sản thế giới của UNESCO, với tên gọi Hệ thống các hồ Kenya trong Thung lũng Tách giãn Lớn.

Phía nam của hồ là suối nước nóng "Kekopey" là nơi phổ biến, đến mức những người Maasai địa phương cho rằng, tắm ở đây có thể chữa khỏi AIDS. Các bụi lau sậy quanh hồ là nơi trú ẩn và sinh sản của loài bồ nông và vạc.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Hồ Elmenteita nhìn từ cao tốc Nairobi-Nakuru.

Khu vực hồ Elmenteita xuất hiện những người da trắng khi Hugh Cholmondeley thành lập Soysambu, một trang trại rộng 48.000 mẫu Anh (190 km2) ở phía tây hồ. Sau đó ông đã tặng phần đất phía bên kia của hồ cho người anh em rể của mình là Galbraith Lowry Egerton Cole. Trang trại ngày nay vẫn được con cháu của Hugh Cholmondeley quản lý. Khu vực này chiếm đến 2/3 bờ hồ và là nhà của hơn 12.000 loài động vật hoang dã. Năm 2005, hồ Elmenteita đã được chỉ định là một vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, theo công ước Ramsar.[1]

Hệ sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]
Hồ Elmenteita, như nhìn thấy từ trên không.

Có hơn 400 loài chim được ghi nhận ở lưu vực hồ Nakuru và Elmenteita. Elmenteita là nơi thu hút hai loài hồng hạc nhỏhồng hạc lớn tới đây kiếm ăn. Thức ăn của chúng là các loài giáp xác, côn trùng và ấu trùng được nuôi dưỡng bởi vi khuẩn lam. Cá rô phi đưa đến vùng hồ Magadi vào năm 1962 khiến số lượng hồng hạc giảm đi đáng kể. Điều này là do cá rô phi khiến thu hút các loài chim săn mồi ăn cá và ăn cả trứng, chim non. Hơn một triệu chim hồng hạc trước đây từng sống ở hồ Elmenteita được cho là đã di trú tới hồ NatronTanzania để kiếm ăn. Bên bờ hồ Elmenteita là nơi các loài ngựa vằn, Linh dương Gazelle, Linh dương ElandLợn rừng cư trú.

Hồ Elmenteita khá nông (độ sâu dưới 1 mét) và thường có những bãi bùn trong mùa khô. Trong khoảng thời gian cuối thời kỳ Pleistocen, đầu Holocen, Elmenteita và Nakuru từng là một hồ lớn. Điều này được xác nhận qua các lớp trầm tích tại nhiều địa điểm khác nhau xung quanh lưu vực hồ, bao gồm cả khu vực bờ hồ trước đây trong quá khứ. Gần đây, do hoạt động của con người tăng, cùng với việc lưu vực hồ khô cạn khiến số lượng hồng hạc giảm sút đáng kể.[2]

Địa điểm khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Cách đó không xa là Bảo tàng Kariandusi, một địa điểm thời tiền sử quan trọng, nơi những chiếc rìu đá cầm tay và dao cắt được nhà khảo cổ học người Anh Louis Leakey phát hiện năm 1929. Elmenteita Badlands là một dòng dung nham nằm ở phía nam của hồ bị bao phủ bởi một cây bụi là nơi có một số đỉnh núi vô cùng ngoạn mục.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Peck, Dwight (ngày 17 tháng 9 năm 2005). “Lake Elmenteita added to the Ramsar List”. The Ramsar Convention on Wetlands. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2009.
  2. ^ Daily Nation, ngày 8 tháng 12 năm 2009: A lake lies on its deathbed Lưu trữ 2012-09-15 tại Wayback Machine
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Anime Review] Zankyou no Terror – Nhớ đến họ, những con người đã ngã xuống
[Anime Review] Zankyou no Terror – Nhớ đến họ, những con người đã ngã xuống
Zankyou no Terror là một phim nặng về tính ẩn dụ hình ảnh lẫn ý nghĩa. Những câu đố xoay vần nối tiếp nhau, những hành động khủng bố vô hại tưởng chừng như không mang ý nghĩa, những cuộc rượt đuổi giữa hai bên mà ta chẳng biết đâu chính đâu tà
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2014) sẽ đem lại cho bạn cái nhìn chân thực, những mặt tối và hậu quả nặng nề đằng sau các cuộc chiến tranh mà nhân loại phải hứng chịu.
Đã biết có cố gắng mới có tiến bộ, tại sao nhiều người vẫn không chịu cố gắng?
Đã biết có cố gắng mới có tiến bộ, tại sao nhiều người vẫn không chịu cố gắng?
Những người càng tin vào điều này, cuộc sống của họ càng chịu nhiều trói buộc và áp lực
Anime Super Cup Vietsub
Anime Super Cup Vietsub
Tự do trong sự cô đơn, Koguma tìm thấy một chiếc xe máy