Hội chứng sợ kim tiêm, được biết đến trong y học như một loại ám ảnh về kim tiêm hoặc các vật nhọn tương tự, là một nỗi sợ hãi cực đoan đối với các thủ tục y tế liên quan đến việc tiêm chích hoặc kim tiêm. Hội chứng sợ kim tiêm còn có tên gọi khác là aichmophobia hoặc belonephobia, mặc dù những thuật ngữ này cũng có thể ám chỉ đến nỗi sợ chung của các vật nhọn. Nó cũng được gọi là trypanophobia, mặc dù nguồn gốc và cách sử dụng của thuật ngữ này gây nhiều tranh cãi.
Theo Tiến sĩ James G. Hamilton, tác giả của bài báo tiên phong về hội chứng sợ kim tiêm, có khả năng hình thức của hội chứng này liên quan đến di truyền trong tiến hóa. Ông cho rằng hàng ngàn năm trước con người đã tỉ mỉ tránh vết thương đâm và tỷ lệ người mắc hội chứng sợ kim tiêm sẽ có cơ hội sống sót cao hơn.
Cuộc thảo luận về cơ sở tiến hóa của hội chứng sợ kim tiêm trong bài báo tổng quan của Hamilton liên quan đến loại ám ảnh kim, một loại ám ảnh phụ liên quan đến chấn thương do tiêm. Đây là loại ám ảnh kim đặc trưng bởi việc ngất do thần kinh phế vị. Đầu tiên, có một sự tăng ngắn trong nhịp tim và huyết áp. Điều này được theo sau bởi một sự sụt giảm nhanh chóng trong cả nhịp tim và huyết áp, đôi khi dẫn đến bất tỉnh. Mất ý thức đôi khi kèm theo co giật và nhiều thay đổi nhanh chóng của nhiều yếu tố kích thích khác nhau.
Các bài báo trên tạp chí y khoa khác đã thảo luận về các khía cạnh bổ sung của mối liên kết có thể có giữa việc ngất do thần kinh phế vị và sự tiến hóa trong những ám ảnh của hội chứng sợ kim tiêm.
Một lý thuyết tâm lý tiến hóa giải thích mối liên hệ với việc ngất do thần kinh phế vị là một dạng ngất xỉu và là những tín hiệu được phát triển để đáp ứng với sự xâm lăng trong thời kỳ đồ đá cũ. Điều này có thể giải thích mối liên hệ giữa ngất xỉu và các kích thích như đổ máu và thương tích.
Hội chứng sợ kim tiêm đã được chính thức công nhận vào năm 1994 trong DSM-IV (Cẩm nang chẩn đoán và thống kê, ấn bản thứ 4) như một ám ảnh cụ thể về loại máu / tiêm / thương tích. Những người mắc phải hội chứng sợ kim tiêm thường tránh tiêm chủng, xét nghiệm máu, và trong các trường hợp nghiêm trọng hơn là tránh tất cả các việc liên quan đến chăm sóc y tế. Người ta ước tính rằng ít nhất 10% người Mỹ trưởng thành sợ bị tiêm, và có khả năng là số lượng thực tế sẽ lớn hơn, vì những trường hợp nặng nhất không bao giờ được ghi nhận do xu hướng tránh việc điều trị y tế của người bệnh.
Hội chứng sợ kim tiêm, đặc biệt là ở dạng nặng hơn, thường đi kèm các bệnh ám ảnh và ảnh hưởng tâm lý khác; ví dụ như chứng mất trí, hoặc sợ hãi bất thường khi gặp bác sĩ, thường thấy ở những bệnh nhân có sự ám ảnh về kim.
Một bệnh nhân mắc hội chứng sợ kim tiêm không phải xuất phát từ việc trải qua các lo sợ khi gặp bác sĩ hoặc điều trị y tế. Có nhiều tác nhân khác gây ra hội chứng này ở bên ngoài. Một số trong số đó là máu, thương tích, nhìn thấy kim trực tiếp hoặc thông qua màn hình, ghim giấy, phòng khám, bệnh viện, áo khoác phòng thí nghiệm, áo choàng bệnh viện, bác sĩ, nha sĩ, y tá, mùi sát trùng liên quan đến bệnh viện hoặc thậm chí khi đọc về nỗi sợ hãi.
Các tài liệu y học cho thấy một số phương pháp điều trị đã được chứng minh có hiệu quả cho trường hợp cụ thể của hội chứng sợ kim tiêm. Sau đây là một số phương pháp điều trị đã được chứng minh là có hiệu quả trong một số trường hợp cụ thể.
|journal=
(trợ giúp); |title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
|journal=
(trợ giúp); |title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên greenbaum
|journal=
(trợ giúp); |title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
|journal=
(trợ giúp); |title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
[1]