Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 là bản hiến pháp được hình thành trong thời Đệ Nhất Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam vào năm 1956.
Sau cuộc Trưng cầu Dân ý ở phía nam vĩ tuyến 17 vào Tháng Mười năm 1955 với kết quả là Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế thì tân tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhóm họp Ủy ban Thảo hiến vào cuối năm 1955 gồm 11 thành viên để soạn Hiến pháp cho quốc gia cộng hòa mới.[1] Sang Tháng Ba năm 1956 thì mở cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến với 123 đại biểu[2] để hoàn tất công việc soạn thảo và thông qua bản hiến pháp. Chính Quốc hội cũng đề cử 15 người lập ra Ủy ban hiến pháp riêng, chủ tịch là Trần Chánh Thành để cùng hiệp soạn.[3] Tháng Bảy năm 1956 thì Quốc hội bỏ phiếu thuận và đến 26 Tháng Mười năm 1956 sau khi một vài điểm dị biệt giữa hai ngành lập pháp và hành pháp được giải quyết thì tổng thống ký văn bản ban hành.[4] Ngày chính thức ban hành hiến pháp đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa (26 tháng 6 năm 1956) cũng được chọn là ngày quốc khánh của nền Đệ Nhất Cộng hòa mặc dù chính thể Việt Nam Cộng hòa đã hình thành trước đó đúng hai năm (26 tháng 6 năm 1954).
Về mặt pháp lý, bản Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 khẳng định việc phân chia quyền lực của chế độ là tam quyền phân lập và có mục tiêu để hai ngành lập pháp và hành pháp kiểm soát lẫn nhau. Về ngành tư pháp thì quyền lực kém hơn và không được độc lập hoàn toàn vì lệ thuộc vào Bộ Tư pháp và phủ Tổng thống bổ nhiệm và điều hành.[4][5] So sánh với các quốc gia khác thì Hiến pháp 1956 dồn nhiều quyền lực vào ngành hành pháp hơn vì tổng thống có những đặc quyền trong những trường hợp nội loạn, chiến tranh hay khủng hoảng tài chánh.[4]
Hiến pháp bị coi là cách để Ngô Đình Diệm có toàn quyền khống chế bộ máy nhà nước, thể hiện qua những điểm:
Tóm lại, theo Hiến pháp 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm có đầy đủ quyền lực để triệt tiêu hoặc làm tê liệt các đạo luật nào mà ông không vừa ý, cũng như dễ dàng ban hành và thi hành các đạo luật nào có lợi cho mình.
Xét về mặt tinh thần thì Hiến pháp 1956 đặt nhân dân ở cương vị chủ chốt của quốc gia và "chủ quyền thuộc về toàn dân" (Điều 2). Điều đáng ghi nhận là nền tảng của bản hiến pháp nêu ra ba khía cạnh: "văn minh Việt Nam", "duy linh", và "giá trị con người" như ghi rõ trong lời mở đầu.[6]