Horace Robertson | |
---|---|
Thiếu tướng H.C.H. Robertson (phải hình) chấp nhận thanh gươm của Trung tướng Đế quốc Nhật Bản Adachi Hatazo (trái hình) sau sự đầu hàng của Nhật Bản, ngày 13 tháng 9 năm 1945. | |
Sinh | Warrnambool, Úc | 29 tháng 10, 1894
Mất | 28 tháng 4, 1960 Heidelberg, Úc | (65 tuổi)
Thuộc | Lực lượng Quốc phòng Úc |
Quân chủng | Australia |
Năm tại ngũ | 1914–1954 |
Cấp bậc | Trung tướng |
Chỉ huy | Sư đoàn Bộ binh 6 Úc Sư đoàn Bộ binh 5 Úc Sư đoàn Bộ binh 11 Úc Sư đoàn Thiết giáp 1 Úc Sư đoàn Kỵ binh 1 Úc Lữ đoàn Bộ binh 19 Úc |
Tham chiến | Thế chiến thứ nhất Thế chiến thứ hai Chiến tranh Triều Tiên |
Tặng thưởng | Huân chương Sông Nile Legion of Merit Order of Military Merit Hàn Quốc Distinguished Service Order |
Horace Clement Hugh Robertson (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1894 mất ngày 28 tháng 4 năm 1960), là trung tướng quân đội Hoàng gia Úc và ông đã tham gia thế chiến thứ nhất, thế chiến thứ hai và chiến tranh Triều Tiên. Ông là sinh viên tốt nghiệp hạng nhất trường Đại học sĩ quan Hoàng gia Duntroon.
Trong thế chiến thứ nhất, Robertson phục vụ trong trung đoàn kinh kỵ 10 Úc trong chiến dịch Gallipoli, tham gia vào trận Nek, nơi mà trung đoàn này bị xóa sổ. Sau đó, ông tham gia chiến dịch Sinai và Palestine, tại đây ông bắt được 1 tướng Thổ Nhĩ Kỳ và đã được trao tặng Huân chương Distinguished Service.
Trong thế chiến thứ hai, Robertson chỉ huy lữ đoàn bộ binh 19 Úc tại trận Bardia và chấp nhận sự đầu hàng của Hải quân Ý tại Benghazi và sau đó, ông chỉ huy Sư đoàn Thiết giáp 1 Úc ở Tây Úc. Vào giai đoạn cuối thế chiến thứ hai, ông chấp nhận sự đầu hàng của tướng Đế quốc Nhật Bản Adachi Hatazo.
Robertson là một nhân vật quan trọng trong việc thành lập Quân đoàn Thiết giáp Úc. Trụ sở chính quân đoàn tại Darwin được đặt tên doanh trại Robertson để vinh danh ông.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)