Huỳnh Duy Thạch | |
---|---|
Sinh | Nhơn Thạnh Trung, Tân An, Long An | 2 tháng 11, 1943
Mất | 19 tháng 1, 1974 Hoàng Sa | (30 tuổi)
Thuộc | Quân chủng Hải quân |
Quân chủng | Việt Nam Cộng hòa Quân lực VNCH |
Năm tại ngũ | 1967-1974 |
Cấp bậc | Đại úy Hải quân |
Đơn vị | Hải quân Công xưởng (HQ-471), (HQ-473) (HQ-10) |
Chỉ huy | Quân lực VNCH |
Tham chiến | Hải chiến Hoàng Sa |
Tặng thưởng | B.quốc H.chương V[1] |
Huỳnh Duy Thạch (1943-1974), nguyên là sĩ quan Cơ khí của Hải quân Việt Nam Cộng hòa thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung úy Hải quân. Chức vụ cuối cùng của ông là Cơ khí trưởng trên Hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10 (USS Serene AM-300). Ông đã tử trận trong trận hải chiến Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974, được truy thăng Đại úy Hải quân
Ông sinh ngày 2 tháng 11 năm 1943 tại ấp Nhơn Trị, xã Nhơn Thạnh Trung, thị xã Tân An, tỉnh Long An trong một gia đình khá giả. Thuở thiếu thời, do tránh sự truy lùng của mật thám Pháp, cụ thân sinh của ông là ông Huỳnh Duy Cần đã đưa cả gia đình chuyển về Đà Lạt. Ông trưởng thành trong suốt quãng đời niên thiếu tại đây. Năm 1963, ông tốt nghiệp Trung học đệ nhị cấp (Trung học Phổ thông cấp III) ở Trường Collège d'Adran Đà Lạt với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II)
Giữa năm 1964, ông thi đậu vào ngành Hàng hải tại Sài Gòn và được nhập học khóa 13 Hàng hải - Thương thuyền. Năm 1966, ông tốt nghiệp ra trường với chức vụ sĩ quan cơ khí, phục vụ trên các thương thuyền của Sở Hàng hải – Thương thuyền VNCH.
Năm 1967, trong đợt Tổng động viên của Bộ quốc phòng VNCH, ông được đồng hóa sang quân đội. Ngày 14 tháng 02 năm 1967, ông theo thụ huấn khóa 24 sĩ quan trừ bị tại Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ngày 05 tháng 11 cùng năm, mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy, ra trường ông được chuyển về quân chủng Hải quân Việt Nam Cộng hòa, phục vụ trong Hải quân Công xưởng, là sĩ quan Cơ khí trên tàu HQ-471. Ngày 5 tháng 1 năm 1969, ông được thăng cấp Thiếu úy Hải quân tại nhiệm. Tháng 7 cùng năm, thuyên chuyển sang phục vụ trên tàu HQ-473, ông được làm sĩ quan Cơ khí trưởng. Ngày 20 tháng 2, ông được thăng cấp Trung úy Hải quân tại nhiệm. Ngày 16 tháng 4 năm 1973, thuyên chuyển sang làm Cơ khí trưởng trên Hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10.
Trước chuyến công tác cuối cùng khi chiến hạm rời Đà Nẵng ra Quần đảo Hoàng Sa, Ông đã nhận được lệnh thuyên chuyển của Thiếu tá Ngụy Văn Thà, Hạm trưởng HQ-10 để về phục vụ tiếp tục cho Hàng Hải Thương Thuyền, nhưng ông đã chọn ở lại.
Sau một số va chạm, lúc 10 giờ 22 phút sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trận giao chiến giữa lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc đã nổ ra. Mỗi bên đều có 4 tàu, tuy nhiên tàu của Quân lực VNCH to hơn và trang bị hỏa lực mạnh hơn nhiều.
Trong trận chiến, HQ-10 là chiến hạm đã khai hỏa đầu tiên vào chiếc tàu quét mìn 389 của Trung Quốc làm nó bốc cháy khói mịt mù phải lùi lại phía sau, cùng lúc khẩu pháo 127 ly trên HQ-16 bắn trực xạ vào chiếc tàu quét mìn 396 và chiếc này bị trúng đạn ngay đài chỉ huy.
Vì tàu HQ-10 chỉ còn lại duy nhất một máy khiển dụng, do đó chiếc 389 đã áp sát để tấn công tới tấp. Chiếc HQ-10 trúng đạn ở Đài chỉ huy và phòng lái, hạm trưởng Ngụy Văn Thà[2] và hầu hết các sĩ quan có mặt trên Đài chỉ huy và phòng lái đều tử trận ngoại trừ Hạm phó Nguyễn Thành Trí[3] bị thương nặng. Hầm máy và hầm đạn cũng bị nổ tung và phát hỏa do trúng đạn của Trung Quốc, Trung úy Huỳnh Duy Thạch cùng các nhân viên thuộc cấp cũng đã bị tử thương.
Theo lời kể của Trung tá Hải quân Lê Văn Thự[4], chỉ huy tàu HQ-16 thì: Phân đoàn II (gồm HQ-16 và HQ-10) là cánh tham chiến chủ yếu, còn Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) chỉ ở bên ngoài "nhìn và đợi". Và vì quá lo sợ Trung Quốc nên tin chắc thế nào Phân đoàn 2 cũng bị đánh chìm, Đại tá Hà Văn Ngạc[5] đã ra lệnh HQ-5 bắn 5 - 7 phát trước khi rút lui, mấy phát đạn này lại bắn trúng vào đồng đội là chiếc HQ-16, khiến tàu HQ-16 bị hỏng nặng[6] Cũng theo Lê Văn Thự thì:
Đến 14h52 phút thì HQ-10 chìm hoàn toàn xuống biển (tại địa điểm cách phía nam Đá Hải Sâm khoảng 2,5 km), mang theo hầu hết các những quân nhân tử thương trên tàu.
Sau khi tử trận, ông được Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tặng thưởng và truy tặng 6 huy chương, trong đó có Đệ ngũ hạng Quân vụ Bội tinh, Đệ ngũ đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu và truy thăng cấp bậc Đại úy Hải quân.
-Quân vụ Bội tinh đệ ngũ hạng
-Bảo quốc Huân chương đệ ngũ đẳng (truy tặng)
-Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu (truy tặng)