Trường Bộ binh Thủ Đức Việt Nam Cộng hòa | |
---|---|
Hoạt động | 1951-1975 |
Quốc gia | Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Quân lực Việt Nam Cộng hoà |
Quân chủng | Quân trường |
Phân loại | Cao đẳng Quân sự |
Bộ phận của | Tổng cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu |
Khẩu hiệu | Cư An Tư Nguy |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | -Lê Văn Nghiêm -Hồ Văn Tố -Phan Đình Thứ -Bùi Hữu Nhơn -Phạm Quốc Thuần -Nguyễn Vĩnh Nghi |
Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức hoặc Liên trường Võ khoa Thủ Đức hay còn gọi là Trường Bộ binh Thủ Đức (đầu tiên ở Thủ Đức, đến cuối năm 1973 thì chuyển đến Long Thành) là một trong 6 trường đào tạo sĩ quan cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Năm trường còn lại là Trường Võ bị Quốc gia, Đại học Chiến tranh Chính trị ở Đà Lạt, Trường Sĩ quan Không quân, Trường Sĩ quan Hải quân và Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế ở Nha Trang. Trường Thủ Đức hoạt động từ năm 1951 đến năm 1975.
Do sắc lệnh của Quốc Trưởng Bảo Đại ký ngày 15 tháng 7 năm 1951, kêu gọi tổng động viên: Thanh niên tuổi từ 18 đến 28 đều phải nhập ngũ. Những người có bằng từ Cao đẳng Tiểu học trở lên sẽ nhập học khóa sĩ quan trừ bị.
Vào thời điểm này Chính phủ Quốc gia Việt Nam tổ chức 2 vị trí để thành lập Trường sĩ quan trừ bị: miền Bắc lập trường tại Nam Định gọi là Trường sĩ quan trừ bị Nam Định và miền Nam lập tại Thủ Đức gọi là Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức (trường Thủ Đức được xây dựng trên đồi Tăng Nhơn Phú, xã Linh Xuân Thôn, Quận Thủ Đức, Tỉnh Gia Định, Hiện nay là phân hiệu trường ĐH GTVT cơ sở 2). Cả hai trường đều tuyển sinh và khai giảng khóa học đầu tiên cùng thời gian: 1 tháng 10 năm 1951. Khóa 1 Nam Định mang tên Lê Lợi và khóa 1 Thủ Đức mang tên Lê Văn Duyệt.
Qua năm 1952, trường Nam Định được lệnh giải tán và sáp nhập vào với trường Thủ Đức. Cũng từ thời điểm này, thí sinh trên toàn Quốc gia nhập ngũ vào sĩ quan trừ bị đều vào học tại Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Khóa 2 được khai giảng vào ngày 15 tháng 10 năm 1952.
Từ khóa 1 đến khóa 5, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu uý, trường hợp thi tốt nghiệp với số điểm thấp hơn quy định thì ra trường mang cấp bậc Chuẩn úy hoặc Trung sĩ (hạ sĩ quan). Thiếu úy sau 2 năm được đương nhiên thăng cấp Trung úy và Chuẩn úy sau 18 tháng được thăng cấp Thiếu úy.
Từ khóa 6, khóa sinh tốt nghiệp chỉ mang cấp bậc Chuẩn úy. Sĩ quan xuất thân từ khóa này trở về sau, không được áp dụng tiêu chuẩn lên cấp tướng. Cho nên, sau này chỉ thấy cấp cao nhất là cấp Đại tá (Ngoại trừ trường hợp được xét chuyển qua ngạch hiện dịch sẽ được hưởng quy chế lên tướng. Ngoài ra, các quân nhân xuất thân từ trường Thiếu sinh quân và 4 khóa sĩ quan hiện dịch đặc biệt thụ huấn ở Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế các năm từ 1959-1963 cũng được hưởng quy chế này).
Đầu tháng 2 năm 1955, Trường gián đoạn tuyển sinh và đào tạo sĩ quan trừ bị do ảnh hưởng của Hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 trong điều khoản giảm trừ quân bị. Cuối tháng 2 năm 1957, Trường tái hoạt động và được cải danh thành Liên trường Võ khoa Thủ Đức.
Stt | Tên trường | Chú thích | Stt | Tên trường | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Trường Quân xa | |||||
Tháng 10 năm 1961, các trường Chuyên môn được tách ra khỏi Liên trường Võ khoa Thủ Đức (ngoại trừ 3 Trường Bộ binh, Thiết giáp và Thể dục Quân sự).
Năm 1962, phù hiệu của Liên trường Võ khoa Thủ đức gồm ngọn lửa hồng bao quanh thanh kiếm bạc trong nền xanh và được ghi thêm phương châm Cư An Tư Nguy (Có nghĩa là muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Suy rộng ra: "Muốn Hòa bình phải chuẩn bị Chiến tranh") do sáng kiến của Đại tá Phan Đình Thứ (tự Lam Sơn) đương nhiệm Chỉ huy trưởng của trường.
Ngày 1 tháng 8 năm 1963, Trường lấy lại danh hiệu cũ lúc ban đầu là Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Năm 1964, Trường lãnh thêm nhiệm vụ đào tạo các cán bộ Đại đội trưởng và Tiểu đoàn trưởng (theo chương trình học, khi mãn khóa được cấp văn bằng tốt nghiệp Đại đội trưởng hoặc Bộ binh Cao cấp). Cũng kể từ năm này các thí sinh muốn trúng tuyển vào học sĩ quan trừ bị phải có văn bằng Tú tài 1 trở lên hoặc chứng chỉ tương đương. Ngày 1 tháng 7/ năm 1964 Trường được cải danh thành Trường Bộ binh Thủ Đức
Trường đào tạo từ khóa 1 (1951) đến khóa 27 theo thứ tự từng năm nhưng khi chiến cuộc leo thang, nhu cầu đòi hỏi nhiều sĩ quan khiến số khóa tăng lên từ 2 khóa mỗi năm. Kể từ năm 1968 trở đi thì mỗi khóa được gọi là "1/68", "2/68", "1/69", "2/69"...[1].
Trong khuôn viên Trường có một đài tưởng niệm gọi là Trung nghĩa Đài ghi bốn chữ "Tổ quốc ghi ơn."[2] Kể từ năm 1968 công việc đào tạo sĩ quan trừ bị của Trường Thủ Đức được bổ túc bởi Trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, thường gọi là Trường Đồng Đế ở Nha Trang.[3]
Cuối năm 1973, Trường Bộ binh Thủ Đức được lệnh di chuyển về Huấn khu Long Thành. Đến giữa tháng 4 năm 1975 lại di chuyển về Thủ Đức.
Trường Bộ binh Thủ Đức giải thể vào năm 1975, khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ. Trong thời gian hoạt động 1951-1975, Trường Thủ Đức đã đào tạo hơn 80.000 sĩ quan trong đó khoảng 4.000 sĩ quan đặc biệt.[4]
Khóa | Tên khóa Niên khóa |
Thời gian | Sĩ số Khóa sinh |
Chỉ huy | Tên Trường | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|---|
1951-1952 |
1/6/1952 (8 tháng) |
Nam Định |
Trường được thành lập tại tỉnh Nam Định ở miền Bắc, nhưng chỉ đào tạo sĩ quan trừ bị một khóa duy nhất. | |||
1951-1952 |
1/6/1952 (8 tháng) |
Thủ Đức |
Trường được thành lập ở một vị trí trong quận Thủ Đức thuộc tỉnh Gia Định. | |||
1952-1953 |
1/4/1953 (6 tháng) |
|||||
1953 |
1/11/1953 (7 tháng) |
Giai đoạn sĩ quan Pháp chuyển chức vụ Chỉ huy trưởng sang sĩ quan người Việt | ||||
1953-1954 |
16/3/1954 (6,5 tháng) |
|||||
1953-1954 |
1/6/1954 (6 tháng) |
|||||
1954 |
1/10/1954 (6,5 tháng) |
|||||
1954-1955 |
1/2/1955 (7,5 tháng) |
|||||
1954-1955 |
(12 tháng) |
|||||
1957-1958 |
8/3/1958 (11,5 tháng) |
Võ khoa |
||||
1958-1959 |
10/6/1959 (11,5 tháng) |
|||||
1959-1960 |
7/3/1960 (12 tháng) |
|||||
1959-1960 |
14/11/1960 (13 tháng) |
|||||
1960-1961 |
14/6/1961 (12 tháng) |
|||||
1961 |
22/12/1961 (11,5 tháng) |
|||||
1961-1962 |
1/8/1962 (9,5 tháng) |
|||||
1962 |
28/12/1962 (9,5 tháng) |
|||||
1962-1963 |
14/6/1963 (9 tháng) |
|||||
1963 |
27/11/1063 (9 tháng) |
|||||
1963-1964 |
30/4/1964 (7 tháng) |
|||||
1964 |
22/10/1964 (9,5 tháng) |
|||||
1964-1965 |
18/3/1965 (9,5 tháng) |
|||||
1964-1965 |
27/8/1965 (9 tháng) |
|||||
1965 |
22/12/1965 (8,5 tháng) |
|||||
(13 tháng) |
||||||
1/12/1966 (10 tháng) |
||||||
1/6/1967 (9 tháng) |
||||||
10/8/1967 |
||||||
5/12/1967 (7 tháng) |
||||||
8/6/1968 (7 tháng) |
||||||
1/8/1968 (7 tháng) |
Năm học | Khóa học | Chỉ huy trưởng | Chú thích | Năm học | Khóa học | Chỉ huy trưởng | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|---|---|
(2/68) 3/68 4/68 5/68[31] 6/68 7/68 8/68 9/68 |
2 khóa thụ huấn tại Nha Trang |
2/72 3/72 4/72 5/72 (6/72) 7/72 8/72 9A/72 9B/72 9C/72 10/72 (11/72)[34] 12A/72 12B/72[35] |
3 khóa thụ huấn tại Nha Trang Thời điểm này chiến tranh tại Việt Nam đã lên đến đỉnh điểm. Do đó nhu cầu về cán bộ chỉ huy ở các đơn vị, nhất là các đơn vị Chủ lực quân cũng tăng theo. Bộ Quốc phòng VNCH đã phải ban hành lệnh Tổng động viên toàn quốc | ||||
(2/69) 3/69[37] 4/69 5/69 |
Th/tướng Thuần |
1 khóa thụ huấn tại Nha Trang. |
2/73 3/73 4/73 5/73 6/73 7/73 8/73 9/73 |
Tr/tướng Minh |
Các khóa 1 và 2 thụ huấn ở Thủ Đức. Từ khóa 3 đến khóa 7 thụ huấn tại Long Thành. Kể từ năm 1973, Trường Bộ binh Thủ Đức đã dời khu huấn luyện ra Long Thành. | ||
2/70 3/70 4/70 5/70 6/70[38] |
Sáu (6) khóa học |
2/74 3/74 |
Tr/tướng Nghi |
Khóa 3/74 còn đang thụ huấn dở dang tại Huấn khu Long Thành thì xảy ra biến cố 30/4/1975 | |||
2/71 3/71 4/71[39] 5/71[40] |
Đ/tá Minh |
Mới khai giảng tại Huấn khu Long Thành vào tháng 1/1975 |
Stt | Họ và tên | Cấp bậc sau cùng |
Năm phong | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Stt | Họ và tên | Cấp bậc sau cùng |
Năm phong | Khóa học | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Truy thăng | |||||
Truy thăng | |||||
Truy thăng | |||||
Truy thăng | |||||
Truy thăng | |||||
Tự sát ngày 30/4/1975 | |||||
Truy thăng | |||||
Truy thăng | |||||
Thụ huấn bổ túc | |||||
Stt | Họ và tên | Cấp bậc tại nhiệm |
Thời gian tại chức |
Tên Trường | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Võ bị Lục quân Pháp[46] |
Giải ngũ ở cấp Đại tá | ||||
Võ bị Lục quân Pháp |
(1955) |
(1957) |
Giải ngũ năm 1965 ở cấp Trung tướng | ||
Võ bị Huế K1 |
(1958) |
Giải ngũ năm 1966 ở cấp Thiếu tướng | |||
Võ bị Huế K2 |
Từ trần đột ngột năm 1962 | ||||
(Lam Sơn) Võ bị Lục quân Pháp |
(1958) |
(8/1963) |
Giải ngũ năm 1973 ở cấp Chuẩn tướng | ||
Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà lạt |
(1958) |
Giải ngũ năm 1974 ở cấp Trung tướng | |||
Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt |
(3/1964) |
(7/1964) |
Chỉ huy trưởng lần thứ 1 | ||
Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt |
(5/1964) |
Sau cùng là Trung tướng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng | |||
Võ bị Huế K1 |
(1958) Chuẩn tướng (11/1965) |
Sau cùng là Trung tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Chiến tranh Chính trị | |||
(1965) |
Tái nhiệm Chỉ huy trưởng lần thứ 2. Giải ngũ năm 1968 ở cấp Thiếu tướng | ||||
Võ bị Đà Lạt K3 |
(1965) Chuẩn tướng (6/1968) |
Sau cùng là Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt | |||
Võ bị Đà Lạt K5 |
(6/1968) Trung tướng (8/1971) |
Sau cùng là Trung tướng Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế | |||
Võ bị Đà Lạt K4 |
(11/1972) |
Sau cùng là Trung tướng Tư lệnh Biệt khu Thủ đô | |||
Võ bị Đà Lạt K5 |
(3/1974) |
Sau cùng là Trung tướng Tư lệnh phó Quân đoàn III kiêm Tư lệnh Tiền phương, đảm trách phòng tuyến Phan Rang | |||
Võ khoa Thủ Đức K3p |
Chỉ huy trưởng sau cùng |