Trong khoảng thời gian tồn tại, Hải quân Việt Nam Cộng hòa là lực lượng có trang bị mạnh nhất Đông Nam Á. Khác với Hải quân Hoa Kỳ được trang bị tàu sân bay để có thể yểm trợ các lực lượng tác chiến trên vùng biển xa cũng như các lực lượng tác chiến ven biển, hải quân VNCH chỉ được Hoa Kỳ cung cấp cho những tuần duyên hạm, khu trục hạm và các chiến hạm loại nhỏ và vừa để có thể tuần tiễu và tác chiến tại lãnh hải gần bờ. Hải quân VNCH là lực lượng chủ chốt tham gia Hải chiến Hoàng Sa 1974 tranh chấp các đảo Hoàng Sa với Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Năm 1972 Hải quân Việt Nam Cộng hòa trở thành lực lượng hải quân lớn nhất Đông Nam Á và lớn thứ 4 thế giới theo số lượng tàu chiến và binh sĩ, chỉ sau Liên Xô, Hoa Kỳ và Trung Quốc[1]. Một số nguồn thì cho rằng HQVNCH lớn thứ 9 trên thế giới [2].
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cùng với sự sụp đổ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng hải quân cũng chính thức giải thể.
Hải quân Việt Nam Cộng hòa được thành lập ngày 6 tháng 3 năm 1952,[3] là một thành phần vũ trang trong Quân đội Quốc gia của Quốc gia Việt Nam. Bắt đầu từ đây, các ngành liên hệ thuộc Hải quân cũng được thành lập. Ngày 12 tháng 7 năm 1952, Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang được khánh thành để đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ chuyên nghiệp.[4] Một cơ quan chỉ huy là Ban Hải quân, sau đổi thành Phòng Hải quân đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu.
Các khóa huấn luyện đầu tiên mở từ tháng 9 năm 1952 tới 1953. Thời gian này, vì Hải quân Việt Nam chưa có tàu nên các tân sĩ quan và thủy thủ Việt Nam khi ra trường phải tập sự trên các tàu của Pháp, Trong đó có một số sĩ quan thi tuyển giữa năm 1952 được cử đi du học ở Pháp. Tháng 4 năm 1953, Hải đoàn Xung phong 25 được Pháp giao lại cho Hải quân Việt Nam. Cuối năm 1953, có thêm 2 Đoàn Tiểu đĩnh. Riêng về Lực lượng Tuần giang (Giang lực) cũng chính thức hình thành vào thời điểm này. Cuối năm 1955, có thêm 3 Hải đoàn mới: Hải đoàn 21 tại Mỹ Tho, Hải đoàn 23 tại Vĩnh Long và Hải đoàn 24 tại Sài Gòn. Một số cơ sở trên bờ ở Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên cùng với Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang, Hải quân Công xưởng Sài Gòn và kho đạn Thành Tuy Hạ cũng được Pháp chính thức giao cho Hải quân Việt Nam.
Trước khi triệt thoái khỏi Việt Nam theo Hiệp định Genève 1954, quân đội Pháp đã để lại cho Quân đội Quốc gia VN một số chiến hạm và giang đỉnh. Sau đó, cộng thêm với những giang đĩnh của các đoàn tuần giang bán chính quy sáp nhập vào, lực lượng thủy quân Quốc gia Việt Nam gồm có những đơn vị sau: -3 Hộ tống hạm (Patrol Craft - PC) -2 Hải vận hạm (Landing Ship Medium-LSM) -1 Tàu thủy đạo (Batiment Hydrographe) -3 Trục lôi hạm (Dragueur, Yard Mine Sweeper-YMS) -2 Trợ chiến hạm (Landing Ship Support Large-LSSL) -5 Giang pháo hạm (Landing Ship Infantery Large-LSIL) -4 Giang vận hạm (Landing Craft Utility - LCU) -2 Tuần duyên hạm (Garde Côtière - GC) -70 Quân vận đĩnh (Landing Craft Mechanized-LCM). Trong số này có 2 Tiền phong đĩnh (LCM Monitor), 4 Soái đĩnh (LCM de Commandement), 53 quân vận đĩnh bọc thép (LCM Blinde) và 11 Quân vận đĩnh loại nhẹ (LCM leger). -95 Tiểu đĩnh gọi chung là Vơ-đét (Vedette), trong đó có 17 chiếc loại ứng chiến (Vedette d'Interception), 1 Vơ-đét canh phòng (Vedette de Surveillance), 6 chiếc loại Tuần cảng Y (Yard). Ngoài ra là các Tiểu Giáp Đĩnh: 36 chiếc loại STCAN, 12 chiếc loại FOM dài 8 mét và 23 chiếc loại FOM dài 11 mét. -100 Tiểu vận đĩnh LCVP (Landing Craft Vehicle Personnel), tức là loại tàu nhỏ cỡ như Vơ-đét chở được 6 người, trong đó có 81 loại bình thường và 19 loại nhẹ. -15 Sà lan trong đó một Sà lan máy, 1 Sà lan chở nước và 13 Sà lan thường. -3 tàu dòng (Remorqueur)
Ngoài ra, phần lớn các chiến hạm đã cũ và có một vài chiếc không còn dùng được.
Trong những năm đầu mới thành lập, các sĩ quan hải quân người Việt chỉ mới tốt nghiệp từ quân trường. Vì cấp bậc còn quá thấp, họ không đủ thâm niên để nắm giữ bất cứ một chức vụ quan trọng nào. Ngay cả chức vụ Trưởng ban Hải quân kiêm Phụ tá Hải quân Việt Nam cạnh Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia, đáng lẽ phải là sĩ quan Hải quân Việt Nam, cũng do giới chức người Pháp nắm giữ. Tính đến năm 1955, nếu không kể đến Hạm đội Pháp tại Viễn Đông, Đại tá Récher là sĩ quan Hải quân cao cấp nhất của Hải quân Pháp tại Việt Nam. Vì thế, ông đảm nhiệm cả hai chức vụ Phụ tá Hải quân cho Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia và quyền Chỉ huy trưởng Hải quân Quốc gia Việt Nam.
Cho đến cuối năm 1954, khi Hải quân Pháp bắt đầu chuyển giao quyền chỉ huy các đơn vị thủy quân cho Việt Nam, quân số Hải quân Việt Nam vẫn còn rất ít. Về cấp sĩ quan, cấp cao nhất chỉ có một Đại úy Lê Quang Mỹ, tất cả sĩ quan các khóa 1, 2, 3 là Trung úy, khóa 4 và 5 là Thiếu úy. Ngoài ra, còn thêm các sĩ quan Hải quân đầu tiên tốt nghiệp Trường Hải quân Brest (École Navale de Brest) hồi hương khoảng cuối mùa hè 1955.
Do nhu cầu điều động thủy quân trong các cuộc hành quân, ngày 1 tháng 7 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu tướng Trần Văn Đôn, Phụ tá Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia, kiêm nhiệm chức vụ Trưởng ban Hải quân thay thế Đại tá Récher. Tuy nhiên, việc chuyển quyền chỉ có tính cách chính trị vì toàn bộ sĩ quan của Ban Hải quân dưới quyền tướng Đôn đều là các sĩ quan Hải quân Pháp. Cũng vì lý do này mà Chiến dịch Hoàng Diệu đáng lẽ được tiến hành từ tháng 7 năm 1955, nhưng mãi tới ngày 21 tháng 9 năm 1955 mới khởi sự được.
Khi đó chỉ mới có Hải đoàn Xung phong số 21 được đặt dưới sự điều động của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia, do Thiếu tá Lê Quang Mỹ làm Hải đoàn trưởng. Các Hải đoàn khác tuy đã do sĩ quan Việt Nam làm Chỉ huy trưởng, nhưng về hệ thống vẫn còn trực thuộc Bộ Chỉ huy Giang lực (COFFLUSIC) của Pháp. Vì vậy, trong thời gian diễn ra chiến dịch, các Hải đoàn Việt Nam tham chiến được đặt dưới quyền chỉ huy tạm thời của Thiếu tá Lê Quang Mỹ. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1955, bằng một nghị định chính thức, Thủ tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ Trưởng ban Hải quân, Phụ tá Hải quân cạnh Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia, thay tướng Đôn để chỉ huy Hải quân và đoàn Bộ binh Hải quân (Thủy quân Lục chiến). Vì lẽ này, ông được xem là Chỉ huy trưởng đầu tiên của Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
Qua thời gian dài trưởng thành từ tổ chức, xây dựng, chiến đấu. Tính đến năm 1975 Quân chủng Hải quân Việt Nam đã lớn mạnh với các tổ chức: -1 Bộ Tư lệnh Hải quân -5 Vùng Duyên hải (Hải khu) -2 Vùng Sông ngòi -Hạm đội với nhiều chiến hạm đủ loại -Các Lực lượng: Đặc nhiệm, Duyên phòng, Duyên đoàn, Liên đoàn, Tuần giang, Giang đoàn Xung phong. -3 Trung tâm Huấn luyện Hải quân tại Nha Trang, Cam Ranh và Sài Gòn -Hải quân Công xưởng (Sài Gòn) -Quân số: Khoảng 40.000 người gồm sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ (trong đó có 12 tướng lãnh)
Hạ tuần tháng 3 năm 1975, Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Phó Đô đốc Cang thay thế Đề đốc Tánh, để thực hiện di tản lực lượng còn lại của Quân đoàn I và II theo kế hoạch rút bỏ Quân khu 1 và 2.
Ngày 7 tháng 11 năm 1955, Pháp chuyển giao Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang lại cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Khi đó, Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang huấn luyện các khóa sĩ quan sau đây: -Khóa 6 Sĩ quan Hải quân với tổng số 21 sinh viên sĩ quan, gồm 16 thuộc ngành Chỉ huy và 5 ngành Cơ khí. Nhập trường ngày 21 tháng 4 năm 1955, thời gian thụ huấn 11 tháng. Mãn khóa ngày 8 tháng 3 năm 1956. -Khóa 7 Sĩ quan Hải quân bắt đầu tuyển mộ vào cuối năm 1955. Khóa này được khai giảng tại Nha Trang vào đầu năm 1956. Học trình kể cả thực tập ngoài đơn vị, được nâng lên hai năm với đầy đủ các môn học văn hóa, kiến thức và chuyên nghiệp cho hai ngành chỉ huy và cơ khí.
Kể từ đó, mỗi năm Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang đào tạo khoảng 1.200 nhân sự các cấp.
Ngày 7 tháng 12, để bành trướng các hoạt động ở sông rạch, mỗi Hải đoàn được trang bị 6 LCM, 4 LCVP và 6 Ho-bo (Hors Bord) có vận tốc cao. Hải quân tiếp nhận hai Trợ chiến hạm (Landing Ship Support Large-LSSL): HQ.225 và HQ.226.
Về quân số, vào tháng 7 năm 1955, Hải quân Việt Nam Cộng hòa có 3.858 người, kể cả 1.291 người thuộc đoàn Bộ binh Hải quân. Cũng trong năm này, Hải quân thành lập các lực lượng lớn và tất cả Bộ Chỉ huy đều đặt tại Sài Gòn. -Hải lực gồm có: -3 Hộ tống hạm loại PC (Patrol Craft hay Submarine Chaser): Chi Lăng HQ.01, Vạn Kiếp HQ.02 và Đống Đa HQ.03 -3 Trục lôi hạm loại YMS: Hàm Tử HQ.111, Chương Dương HQ.112, Bạch Đằng HQ.113 -2 Trợ chiến hạm loại LSSL: HQ.225 Nỏ Thần và HQ.226 Linh Kiếm -4 Hải vận hạm loại LSM (Landing Ship Medium): Hát Giang HQ.400, Hàn Giang HQ.401, Lam Giang HQ.402 và Ninh Giang HQ.403 -10 Tuần duyên đĩnh loại WBP (Coast Guart Patrol Cutter) -Giang lực, gồm có: -5 Hải đoàn, mỗi Hải đoàn được trang bị tối thiểu 5 Quân vận đĩnh (Landing Craft Mechanized-LCM), 4 Tiểu vận đĩnh (Landing Craft Vehicle and Personnel-LCVP), 5 Ho-bo có vận tốc cao -4 Giang pháo hạm loại LSIL (Landing Ship Infantry Large) -5 Giang vận hạm loại LCU (Landing Craft Utility) 4 chiếc YTL (Yard Tug Light hay Harbor Craft)
Hậu cứ các Hải đoàn được đặt tại các địa điểm: Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long Xuyên và Cát Lái.
-Các đơn vị trên bờ gồm có: -Bốn Duyên khu tại Phú Quốc, Nha Trang, Vũng Tàu và Đà Nẵng -Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang -Hải quân Công xưởng -Trung tâm Tiếp liệu -Các Thủy xưởng tại Cần Thơ và Đà Nẵng
Kể từ ngày 21 tháng 12 năm 1955, Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa Lê Quang Mỹ công bố thành lập lực lượng Bộ binh Hải quân[46] hình thành và bắt đầu hoạt động như là một đơn vị của Hải quân.
Bộ Tư lệnh Hải Quân được đặt ở Trại Bạch Đằng sau khi Pháp bàn giao căn cứ Caserne Francis Garnier trên bờ sông Sài Gòn
Về Quân y, Y sĩ Thiếu tá Phạm Tấn Tước[47] đảm nhiệm chức vụ Y sĩ trưởng Hải quân. Bộ Chỉ huy Bộ binh Hải quân cùng đóng chung ở Trại Bạch Đằng. Y sĩ Thiếu tá Tước cũng phụ trách luôn phần quân y cho đơn vị này.
Năm 1956, Đài Loan điều tàu đến đảo Ba Bình (là đảo lớn nhất tại thuộc quần đảo Trường Sa) khi đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa. Nhân dịp lễ Song Thập 10/10 của Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan), Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho quân Việt Nam Cộng hòa rút khỏi đảo Ba Bình, Đài Loan giành quyền kiểm soát đảo mà không cần phải nổ súng.[48][49]
Những năm 1956-1966, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã để mất 6 hòn đảo nằm giữa đảo Phú Quốc và nội địa Campuchia vào tay quân đội Vương quốc Campuchia. Đó là các đảo: Hòn Năng trong và Hòn Năng ngoài (tiếng Pháp lần lượt là "Ile du Milieu" và "Ile à l’Eau", còn được gọi là đảo Phú Dự) bị Campuchia đánh chiếm năm 1956; đảo Hòn Tai (Ile du Pic) bị chiếm năm 1958; Hòn Kiến Vàng (Ile des Fourmis) và Hòn Keo Ngựa (Ile du Cheval) bị chiếm năm 1960; đảo Hòn Trọc (đảo Wai hay Poulo Wai, thực tế là gồm 2 đảo nằm liền kề nhau) bị chiếm mất năm 1966. Tổng diện tích các đảo bị mất khoảng 30 km², lớn nhất là đảo Phú Dự rộng khoảng 25 km².
Năm 1970, Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa từ tay Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Theo như Đại tá về hưu Hải quân Philippines Domingo Tucay Jr kể lại thì các đảo, bãi khi đó hoàn toàn hoang vắng, Philippines chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ mới thấy quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở đây. Quân Phillipines báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc quân Việt Nam Cộng hòa. Lính Việt Nam Cộng hòa ở đảo Song Tử Tây cũng để yên để cho quân Philippines hành động. Sau chiến dịch, Philippines chiếm được 6 đảo nổi và bãi đá mà không cần phải nổ súng, trong đó Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa. Philippines giữ các đảo và bãi này từ đó đến nay. Sau vụ chiếm đóng, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không hề lên tiếng gì về vụ chiếm đóng đó. Theo như lời Tucay kể lại, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết vụ việc này[50][51].
Năm 1974, trong Hải chiến Hoàng Sa, quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại và mất toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào tay Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
"Hành quân Trần Hưng Đạo 48" là một chiến dịch do Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiến hành vào tháng 2 năm 1974 đưa quân lên đồn trú các đảo chưa bị chiếm đóng để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa sau sự kiện Hải chiến Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974.[52][53]
Danh sách tàu hải quân của Hải quân Việt Nam Cộng hoà
Phần lớn tàu chiến của Hải quân Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kì viện trợ bằng cách chuyển giao một số tàu chiến của Hải quân Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa, chỉ một số nhỏ ghe tuần tiễu là do Hải quân Pháp để lại: -Ghe Nautilus -Duyên tốc đĩnh PCF (Swift) -Khinh tốc đĩnh PTF -PTF loại cũ -PTF Na Uy (Nasty) -PTF (Osprey)
Trang bị của Hải quân Việt Nam Cộng hòa thời điểm tháng 4/1975[54]
Chữ viết tắt dùng trong phần danh sách các hạm: -TT: (Trọng tải) -KT: (Dài × Rộng × Mớm nước - Đơn vị = mét) -VT: (Vận tốc) -TD: (Thủy thủ đoàn) -VK: (Vũ khí)
^Trực thuộc Bộ tư lệnh Hải quân, điều hành và chịu trách nhiệm các cuộc hành quân trên biển từ vĩ tuyến 17 đến vịnh Thái Lan. Các đơn vị trực thuộc: Hải khu 1 -Hải khu 2 -Hải khu 3 -Hải khu 4 -Hải khu 5 -Lực lượng Đặc nhiệm -Lực lượng Hải thuyền -Lực lượng Hải tuần -Liên đoàn Người nhái và Biệt hải
^Còn gọi là Vùng 1 Duyên hải, các đơn vị trực thuộc gồm có: -Lực lượng Đặc nhiệm 11 (Đà Nẵng) -Hải đội 1 Duyên phòng (Đà Nẵng) -Duyên đoàn 11 (Cửa Việt) -Duyên đoàn 12 (Cửa Thuận An) -Duyên đoàn 13 (Cửa Tư Hiền) -Duyên đoàn 14 (Thị xã Hội an) -Duyên đoàn 15 (Chu Lai) -Duyên đoàn 16 (Quảng Ngãi) Hoạt động và trách nhiệm vùng duyên hải phạm vi các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngãi.
^Còn gọi là Vùng 2 Duyên hải, các đơn vị trực thuộc gồm có: -Lực lượng Đặc nhiệm 21 (Nha Trang) -Hải đội 2 Duyên phòng (Quy Nhơn) -Duyên đoàn 21 (Cù lao Xanh, Quy Nhơn) -Duyên đoàn 22 (Cù lao Xanh, Quy Nhơn) -Duyên đoàn 23 (Sông Cầu) -Duyên đoàn 24 (Tuy Hòa) -Duyên đoàn 25 (Hòn Khói) -Duyên đoàn 26 (Đảo Bình Ba) -Duyên đoàn 27 (Phan Rang) -Duyên đoàn 28 (Phan Thiết) Hoạt động và trách nhiệm vùng duyên hải các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Đặc khu Cam Ranh
^Còn gọi là Vùng 3 Duyên hải, các đơn vị trực thuộc gồm có: -Lực lượng Đặc nhiệm 31 (Vũng Tàu) -Hải đội 3 Duyên phòng (Cát Lở) -Duyên đoàn 31 (Hàm Tân) -Duyên đoàn 32 (Bến Đình, Vũng Tàu) -Duyên đoàn 33 (Rạch Dừa) -Duyên đoàn đoàn 34 và 37 (Kiến Hòa) -Duyên đoàn 35 (Vĩnh Bình) -Duyên đoàn 36 (Ba Xuyên) Hoạt động và trách nhiệm vùng duyên hải các tỉnh: Bình Tuy, Phước Tuy, Gò Công, Kiến Hòa, Định Tường, Vĩnh Bình và Đặc khu Vũng Tàu
^Còn gọi là Vùng 4 Duyên hải, các đơn vị trực thuộc gồm có: -Liên đoàn Đặc nhiệm 41 (Phú Quốc) -Hải đội 4 Duyên phòng (Đảo An Thới) -Duyên đoàn 42 (Đảo Nam Du) -Duyên đoàn 43 (Cửa sông Ông Đốc) -Duyên đoàn 44 (Thị xã Rạch Giá) -Duyên đoàn 45 (Hà Tiên) -Duyên đoàn 46 và 47 (An Thới) Hoạt động và trách nhiệm vùng duyên hải và các cửa sông từ mũi Cà Mau đến ranh giới Việt-Miên, các quần đảo, hải đảo của VNCH trong vịnh Thái Lan
^Đại tá Nguyễn Văn May, sinh năm 1933 tại Gia Định
^Còn gọi là Vùng 5 Duyên hải, các đơn vị trực thuộc gồm có: -Lực lượng Đặc nhiệm 51 (Thị xã Quản Long, An Xuyên) -Hải đội 5 Duyên phòng (Năm Căn) -Giang đoàn 43 Ngăn chận -Giang đoàn 53 Tuần thám -Duyên đoàn 36 (Cửa Định An) -Duyên đoàn 41 (Đảo Puolo Obi) Hoạt đông và trách nhiệm vùng duyên hải các tỉnh: Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên, duyên hải Thị xã Rạch Giá (Kiên Giang) và chịu trách nhiệm sông Năm Căn, từ cửa Bồ Đề đến sông Bảy Hạp, sông Đồng Cùng và Chi khu Năm Căn
^Thay thế Hải quân Đại tá Nguyễn Xuân Sơn (Tốt nghiệp K4 Sĩ quan Hải quân Nha Trang) vào thời điểm cuối cùng của VNCH. Hạm đội Hải quân gồm có 3 Hải đội: Hải đội 1: Tuần duyên Hải đội 2: Chuyển vận Hải đội 3: Tuần dương Nhiệm vụ tuần tiễu, ngăn chận và nghênh chiến khi tàu định xâm phạm hải phận VN trên biển và sông khắp 4 vùng chiến thuật từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau
^Trực thuộc Bộ tư lệnh Hải quân, điều hành và chịu trách nhiệm các cuộc hành quân trên sông rạch toàn lãnh thổ VNCH. Các đơn vị trực thuộc gồm có: -Giang khu 3 -Giang khu 4 -Lực lượng Thủy bộ (Lực lượng Đặc nhiệm 211) -Lực lượng Tuần thám (LL Đặc nhiệm 212) -Lực lượng Trung ương (Lực lượng Đặc nhiệm 214) -Các Giang đoàn Xung phong
^Còn gọi là Vùng 3 sông ngòi, các đơn vị trực thuộc gồm có: -Giang đoàn 22 và Giang đoàn 28 Xung phong (Nhà Bè) -Giang đoàn 24 và 30 Xung phong (Long Bình) Hoạt động và trách nhiệm trên toàn bộ sông rạch thuộc lãnh thổ Quân khu III
^Còn gọi là Vùng 4 sông ngòi, các đơn vị trực thuộc gồm có: -Giang đoàn 21 và 33 (Mỹ Tho) -Giang đoàn 23 và 31 (Vĩnh Long)<bt>-Giang đoàn 26 (Long Xuyên) -Giang đoàn 25 và 29 (Cần Thơ) Vùng IV Sông ngòi cũng được sự tăng phái của ba Lực lượng Đặc nhiệm 211, 212 và 214. Vùng IV Sông ngòi hoạt động và trách nhiệm trên toàn bộ sông rạch thuộc lãnh thổ Quân khu IV và được chia làm ba vùng, mỗi Lực lượng Đặc nhiệm tăng phái chịu trách nhiệm một vùng để yểm trợ cho Sư đoàn Bộ binh
^Đại tá Nguyễn Bá Trang, sinh năm 1931 tại Vĩnh Long
^Các đơn vị trực thuộc gồm có: -Liên đoàn 1 có Giang đoàn 70 và 71. Hậu cứ tại Long Phú, Ba Xuyên. Nhiệm vụ phối hợp hành quân với các Chi khu thuộc Tiểu khu Ba Xuyên và hộ tống các đoàn thương thuyền chở nhu yếu phẩm từ 2 tỉnh Bạc Liêu, An Xuyên về Sài Gòn -Liên đoàn 2 có Giang đoàn 72 và 73. Hậu cứ tại Thị xã Quản Long, An Xuyên. Nhiệm vụ yểm trợ cho Trung đoàn 32 (thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh) đồng thời phối hợp hành quân và tiếp tế cho các đơn vị thuộc khu vực Tiểu khu An Xuyên -Liên đoàn 3 có Giang đoàn 74 và 75. Hậu cứ tại Rạch Sỏi, Kiên Giang. Nhiệm vụ tuần tiễu và kiểm soát các thủy lộ của 2 tỉnh Chương Thiên và Kiên Giang
^Các đơn vị trực thuộc gồm có: -Liên đoàn 1: Giang đoàn 51, 52 và 57. Hậu cứ tại Nhà Bè, Gia Định. Chỉ huy trưởng: HQ Thiếu tá Nguyễn Thế Sinh -Liên đoàn 2: Giang đoàn 53 và 54. Hậu cứ Liên đoàn tại Bến Kéo, Tây Ninh -Liên đoàn 3: Giang đoàn 59 và 63. Hậu cứ tại Tân Châu, Châu Đốc. Chỉ huy trưởng: HQ Trung tá Phạm Văn Tiêu -Liên đoàn 4 có Giang đoàn 55 và 61. Hậu cứ tại Cái Dầu, Châu Đốc. Chỉ huy trưởng: Hải quân Trung tá Đinh Vĩnh Giang -Liên Đoàn 5 có Giang đoàn 56 và 58. Hậu cứ tại Rạch Sỏi, Kiên Giang. Chỉ huy trưởng: Trung tá Võ Trọng Lưu -Liên đoàn 6: Giang đoàn 60, 62 và 64. Hậu cứ tại Năm Căn, An Xuyên. Chỉ huy trưởng: Trung tá Phạm Thành Nhơn
^Các đơn vị cơ hữu trực thuộc Lực lượng Trung ương: -Liên đoàn 1 (Hậu cứ tại Tuyên Nhơn, Kiến Tường) -Liên đoàn 2 (Hậu cứ tại Kinh Chợ Gạo, Định Tường) -Liên đoàn 3 (Hậu cứ tại Thị xã Cao Lãnh, Kiến Phong) -Liên đoàn Người nhái -6 Giang đoàn Ngăn chận -2 Giang đoàn Trục lôi Ngoài ra, Lực lượng Trung ương còn được tăng phái 2 Giang đoàn Tuần thám và 2 Giang đoàn Xung Phong Hoạt động và trách nhiệm từ các tỉnh tả ngạn sông Tiền Giang thuộc Quân khu IV cho đến sông Vàm Cỏ
^Hoạt động và trách nhiệm trên toàn lãnh thổ của Biệt khu Thủ đô
^Lực lượng Đặc nhiệm 99 là đơn vị Tổng trừ bị của Quân chủng HQ, kết hợp các Giang đoàn: 42 Ngăn chận, 59 Tuần thám và 22 Xung phong. Ngoài ra còn có: 1 đội Trục vớt, 1 Toán Tiền phong Đỉnh và 1 Trung đội Hải kích
^Liên đoàn Tuần giang gồm có 24 Đại đội: Từ Đại đội mang số 11 đến Đại đội mang số 35. Các Đại đội Tuần giang được tăng phái cho các Tiểu khu (tỉnh) và được đặt dưới quyền điều động và sử dụng của Tiểu khu trưởng. Mỗi Tiểu khu được tăng phái 1 Đại đội với nhiệm vụ: -Chuyên chở các đơn vị bạn tham dự các cuộc hành quân do Tiểu khu tổ chức -Tuần tiễu và kiểm soát các ghe thuyền để khám phá và ngăn chận sự xâm nhập của địch -Bảo vệ an ninh Ấp, Xã. Yểm trợ hoả lực và tiếp viện cho các đồn bót ven sông rạch -Hộ tống xà lan chở đạn dược, xăng dầu và thực phẩm v.v...
^Đại tá Đoàn Ngọc Bích, sinh năm 1928 tại Long An.
^Đại tá Nguyễn Văn Lịch, sinh năm 1930 tại Vĩnh Long.
^Đại tá Nguyễn Viết Tân, sinh năm 1932 tại Vĩnh Long
^Sở Phòng vệ Duyên hải là đơn vị thuộc Quân chủng Hải quân, nhưng lại được đặt trực thuộc sự điều động của Nha Kỹ thuật thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Các đơn vị trực thuộc Sở Phòng vệ Duyên hải: -Lực lượng Hải tuần -Lực lượng Biệt hải