Hypericum acmosepalum là tên của một loài cây bụi lùn nằm trong cụm (một thuật ngữ chỉ thứ bậc trong thực vật học, cao hơn loài nhưng lại thấp hơn chi) Hypericum sect. Ascyreia. Bên cạnh đó, nó là loài bản địa của Trung Quốc và tên địa phương của nó là jian e jin si tao.
Nhà thực vật học người Scotland George Forrest đã thu thập mẫu vật của chúng ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, sau đó, ông mang nó về Anh để nghiên cứu. Nó trở thành mẫu vật riêng biệt và được đánh số F.19448. Nhưng sau đó, ông nhầm lẫn nó là H. patulum var. henryi.[1]
Năm 1970, Norman Robson đã mô tả loài này trong tạp chí "The Garden".[2]
Nó cao từ 0,6 đến 2 mét, nhều nhánh thẳng đứng. Thân cây màu cam, có 4 đường khi chưa được 1 năm tuổi, sau đó thì phẳng. Vỏ màu nâu xám. Hoa có màu vàng, đôi khi có sắc đỏ, mỗi hoa có từ 40 đến 65 nhị hoa.[3] Hạt có màu nâu cam hoặc nâu đỏ, dài từ 1 đến 1,1 mm, khối lượng khi khô là 0,05 mg.[4]
Loài cây này phân bố ở Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam và Tứ Xuyên[4][5]. Chúng thường số ở những trảng rừng, ven đường, triền đồi cằn cỗi và ven suối ở độ cao từ 900 đến 2700 mét so với mực nước biển.[6]
Người ta trích xuất những hợp chất từ Hypericum acmosepalum và phát hiện rằng nó có chứa hyperenone A và hypercalin B. Đó là 2 hợp chất có thể làm suy yếu Staphylococcus aureus. Hyperenone A còn có những đặc tính chống lại một vài loài của chi vi khuẩn Mycobacterium. Điều này cho thấy, loài này có ý nghĩa về mặt y học khá lớn.[7]