James Chance and the Contortions

James Chance and the Contortions
Thông tin nghệ sĩ
Tên gọi khácJames White and the Blacks, Contortions
Nguyên quánThành phố New York, New York, Hoa Kỳ
Thể loạiNo wave, punk-funk, avant-garde, punk jazz, post-punk
Năm hoạt động1977 (1977)–1980 (1980), 2010[1]
Hãng đĩaZE
Cựu thành viênJames Chance

George Scott III
Adele Bertei
Jody Harris
Pat Place
Patrick Geoffrois
Richie Harrison
Chiko Hige
Don Christensen
Fred Wells

Lorenzo "Tony" Wyche

James Chance and the Contortions là một ban nhạc được thành lập bởi nhạc công saxophone và ca sĩ James Chance. Họ là một trong những nhóm nhạc đầu tiên của giới nhạc no wave New York.[2]

Lịch sử thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]

Những bản thu đầu tiên của họ, với tên nhóm là Contortions, có mặt trên album tổng hợp năm 1978, No New York, sản xuất bởi Brian Eno.[3] Một năm sau đó, hai album được phát hành gần như đồng thời bởi hãng đĩa ZE Records: BuyOff White dưới tên James White and the Blacks.

Các thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tay guitar đầu tiên của Contortions, Pat Place thành lập ban nhạc post-punk Bush Tetras. George Scott chơi nhạc với Lydia Lunch và Michael Paumgarten trong 8-Eyed Spy. Không lâu sau đó, tay guitar Jody Harris thành lập Raybeats với Don Christensen, George Scott III và Pat Irwin. Tay keyboard Adele Bertei lập ra the Bloods, và phát hành album solo đầu tay, Little Lives, năm 1988. Năm 1979, George Scott lưu diễn cùng John Cale. Scott mất do dùng heroin quá liều vào ngáy 5 tháng 8 năm 1980. Vài thành viên của James White and the Blacks - nổi bật là Joseph Bowie, sau đó tách riêng khỏi Chance và tạo nên nhóm Defunkt.

Ngày 30 tháng 11 năm 2010, James Chance, Pat Place, Don Christensen, Jody Harris, Adele Bertei, và Robert Aaron tái hợp tại Le Poisson Rouge cho một buổi biểu diễn duy nhất. Robert Aaron không phải một thành viên gốc, nhưng lại thường xuyên hợp tác với Chance.[4]

Đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • No New York (1978)
  • Buy (1979)
  • Paris 1980 Live Aux Bains Douches (1980)
  • Live in New York (1981)
  • Soul Exorcism (1991)
  • Lost Chance (1995)
  • Molotov Cocktail Lounge (Enemy, 1996)
  • White Cannibal (2000)

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “The Contortions on Discogs”. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013.
  2. ^ Masters, pp. 74–95
  3. ^ Masters, pp. 8–11
  4. ^ “James Chance & the Contortions played LPR (pics & video)”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2015.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Carlo McCormick, The Downtown Book: The New York Art Scene, 1974–1984, Princeton University Press, 2006
  • Marc Masters, No Wave, London: Black Dog Publishing, 2007

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
MUALANI – Lối chơi, hướng build và đội hình
MUALANI – Lối chơi, hướng build và đội hình
Mualani có chỉ số HP cơ bản cao thuộc top 4 game, cao hơn cả các nhân vật như Yelan hay Nevulette
Việt Nam và ván cờ Biển Đông
Việt Nam và ván cờ Biển Đông
Không ai có thể chọn được hàng xóm, và Việt Nam đã mang trên mình số phận của 1 quốc gia nhỏ yếu kề tường sát vách bên cạnh 1 nước lớn và hùng mạnh là Trung Quốc
Vì sao Harry Potter lại được chiếc nón phân loại đánh giá là thích hợp ở nhà Gryffindor lẫn Slytherin?
Vì sao Harry Potter lại được chiếc nón phân loại đánh giá là thích hợp ở nhà Gryffindor lẫn Slytherin?
Hình như mọi người đều nghĩ Harry Potter thích hợp nhất ở nhà Gry và cảm thấy tất cả mọi yếu tố tính cách của Harry đều chính minh cho một Gry thực thụ
Đấng tối cao Nishikienrai - Overlord
Đấng tối cao Nishikienrai - Overlord
Nishikienrai chủng tộc dị hình dạng Half-Golem Ainz lưu ý là do anh sử dụng vật phẩm Ligaments để có 1 nửa là yêu tinh nên có sức mạnh rất đáng kinh ngạc