Joanna Bator

Joanna Bator
Joanna Bator (2012)
Sinh2 tháng 2, 1968 (56 tuổi)
Wałbrzych, Ba Lan
Nghề nghiệpTiểu thuyết gia, nhà báo, học giả
Giải thưởngGiải thưởng Nike (2013)
Giải thưởng Beata Pawlak (2005)[1]

Joanna Bator (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1968) là một tiểu thuyết gia, nhà báo, nhà nữ quyền và học giả người Ba Lan. Bà chuyên nghiên cứu mảng văn hóa của nhân loại học và nghiên cứu về giới.[2] Joanna Bator được trao Giải thưởng văn học Nike vào năm 2013.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Joanna Bator sinh năm 1968 tại thành phố WałbrzychLower Silesia, tây nam Ba Lan. Bà theo học chuyên ngành văn hóa tại Đại học Warsaw. Joanna Bator cũng tốt nghiệp Trường Khoa học Xã hội liên kết với Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan tại Warsaw. Luận án tiến sĩ của bà bàn về các khía cạnh triết học của lý thuyết nữ quyền và thảo luận về phân tâm họcchủ nghĩa hậu hiện đại. Trong giai đoạn 1999-2008, Joanna Bator làm phó giáo sư tại Khoa Triết học và Xã hội học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan. Trong khoảng thời gian 2007-2011, bà giảng dạy tại Học viện Công nghệ Thông tin Ba Lan-Nhật Bản. Bà cũng được nhận một số học bổng bao gồm học bổng tại Trường Nghiên cứu Xã hội Mới ở New York và học bổng của Quỹ Nhật Bản ở Tokyo.

Joanna Bator quan tâm sâu sắc đến văn hóa Nhật Bản. Cuốn sách đầu tiên bà viết về Nhật Bản là Japoński wachlarz (The Japanese Fan). Cuốn sách nay được viết sau hai năm bà ở Nhật.

Joanna Bator là tác giả của nhiều đâu sách, gồm cả hư cấuphi hư cấu. Các tựa sách như The Japanese FanSandy Mountain nhận được nhiều lời khen ngợi ở quê hương Ba Lan.[3] Năm 2010, bà được đề cử cho Giải thưởng văn học GdyniaGiải thưởng văn học Nike với cuốn sách Sandy Mountain.[4] Ba năm sau, tiểu thuyết Ciemno, prawie noc (Dark, Recent Night) giúp bà giành được Giải thưởng văn học Nike - giải thưởng văn học hàng đầu của Ba Lan.[5][6]

Joanna Bator hiện đang làm chuyên mục viên cho nhật báo Gazeta WyborczaPani. Bà cũng có nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí như Tygodnik Powszechny, Twórczość, Bluszcz, Czas kulturyKultura i społeczeństwo. Bà còn là thành viên ban giám khảo của Giải thưởng Ryszard Kapuściński.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Feminism, Postmodernism, Psychoanalysis (2001)
  • A Woman (2002)
  • The Japanese Fan (2004)
  • Sandy Mountain (2009)
  • Cloudalia (2010)
  • Dark, Almost Night (2013)
  • A Shark from Yoyogi Park (2014)
  • Island Tear (2015)
  • Year of the Rabbit (2016)
  • Purezento (2017)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “JOANNA BATOR LAUREATKĄ NAGRODY IM. BEATY PAWLAK”. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  2. ^ “Joanna Bator”. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  3. ^ Profile
  4. ^ “Nominacje 2010 – Proza” (bằng tiếng Ba Lan). Nagroda Literacka Gdynia. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2013.
  5. ^ “Nike 2013”. Culture.pl. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
  6. ^ Tadeusz Sobolewski, Michał Wybieralski (ngày 6 tháng 10 năm 2013). “Nike 2013 dla Joanny Bator za książkę "Ciemno, prawie noc". Gazeta Wyborcza (bằng tiếng Ba Lan). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Hanekawa Tsubasa trong Monogatari Series
Nhân vật Hanekawa Tsubasa trong Monogatari Series
Hanekawa Tsubasa (羽川 翼, Hanekawa Tsubasa) là bạn cùng lớp cũng như là người bạn thân nhất của Araragi Koyomi
Cuộc đời bất hạnh của Oni Chiyo
Cuộc đời bất hạnh của Oni Chiyo
Chiyo là đồng minh thân cận của Raiden Shogun, bạn của Kitsune Saiguu. Cô là một Oni xuất thân từ gia tộc Mikoshi
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Kể từ ngày Eren Jeager của Tân Đế chế Eldia tuyên chiến với cả thế giới, anh đã vấp phải làn sóng phản đối và chỉ trích không thương tiếc
Nhân vật Zesshi Zetsumei - Overlord
Nhân vật Zesshi Zetsumei - Overlord
Zesshi Zetsumei (絶 死 絶命) là người giữ chức vị đặc biệt trong tổ chức Hắc Thánh Kinh.