Jules Roy

Jules Roy
Sinh22.10.1907
Rovigo, Algérie
Mất15.6.2000
Vézelay, Pháp
Nghề nghiệpNhà văn
Ngôn ngữtiếng Pháp
Tác phẩm nổi bậtLa Vallée heureuse (1946)
Giải thưởng nổi bậtGiải Renaudot
Giải thưởng lớn Văn học của Viện Hàn lâm Pháp
Ngôi nhà của Jules Roy ở Vézelay
Ngôi mộ của Jules Roy ở nghĩa trang Vézelay

Jules Roy (22.10.1907 – 15.6.2000) là quân nhân và nhà văn người Pháp, đã đoạt Giải thưởng lớn Văn học của Viện Hàn lâm Pháp năm 1958.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Jules Roy sinh tại Rovigo (Algérie). Ông sống thời niên thiếu trong một trang trại của ông bà ngoại, rồi vào học trong một chủng viện Công giáo ở Algérie, sau đó gia nhập quân đội Pháp ở Bắc Phi. Sau khi Lực lượng Đồng minh tái chiếm Bắc Phi, ông sang Anh chiến đấu trong Không lực Hoàng gia Anh, chỉ huy một phi đội, từng tham gia nhiều cuộc không kích vùng Ruhr. Giai đoạn này trong cuộc sống được ông dùng làm nền cho quyển truyện kể La Vallée heureuse (Thung lũng hạnh phúc), đoạt giải Renaudot năm 1940 (nhưng tới năm 1946 mới trao giải) cùng nhiều tác phẩm khác [1].

Tháng 6 năm 1953, khi đang mang quân hàm đại tá, ông xin giải ngũ vì chống cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp. Sau khi giải ngũ, ông dành toàn thời gian để sáng tác. Sau cái chết của người bạn - nhà văn Albert Camus - ông cũng công khai tố cáo sự tàn bạo của cuộc chiến tranh Algérie[1].

Năm 1963 giám đốc sáng lập báo L'Express Jean-Jacques Servan-Schreiber đã biếu tổng thống Mỹ John F. Kennedy quyển "La bataille de Dien Bien Phu" của Jules Roy viết về trận Điện Biên Phủ. Kennedy đã nhờ vợ là Jacqueline Kennedy Onassis dịch tóm lược sang tiếng Anh. Schreiber đã thuật lại vụ việc này trong hồi ký của ông.

Năm 1978, Jules Roy về sống ở Vézelay (Yonne), và tiếp tục viết trong suốt quãng đời còn lại. Ông qua đời ngày 15 tháng 6 năm 2000 và được an táng ở nghĩa trang Vézelay.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Jules Roy kết hôn với Mirande Grimal. Họ có hai người con: Jean-Louis và Geneviève. Sau khi ly dị, ông tái hôn với Tatiana Soukoroukoff năm 1965.[1]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiểu thuyết

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Le Tonnerre et les Anges, Nhà xuất bản. Grasset, 1975.
  • Le Désert de Retz, Nhà xuất bản. Grasset, 1978.
  • Les Chevaux du soleil, Nhà xuất bản. Grasset, 1980, 6 tập; (xuất bản thành 1 tập, Nhà xuất bản. Omnibus, 1995).
  • La Saison des Za, Nhà xuất bản. Grasset, 1982.
Truyện kể
  • Ciel et terre, Alger, Charlot, 1943.
  • La Vallée heureuse (Thung lũng hạnh phúc), Charlot, 1946
  • Le Métier des armes, Gallimard, 1948; Julliard, 1960.
  • Retour de l'enfer, Gallimard, 1951; Julliard, 1960.
  • Le Navigateur, Gallimard, 1954; Julliard, 1960.
  • La Femme infidèle, Gallimard, 1955; Julliard, 1960.
  • Les Flammes de l'été, Gallimard, 1956; Julliard, 1960; Albin Michel, 1993.
  • Les Belles Croisades, Gallimard, 1959; Julliard, 1960.
  • La Guerre d'Algérie, Julliard, 1960; Christian Bourgois, 1994.
  • La Bataille de Dien Bien Phu (Trận chiến Điện Biên phủ), Julliard, 1963; Albin Michel, 1989.
  • Le Voyage en Chine, Julliard, 1965.
  • La Mort de Mao, Christian Bourgois, 1969; Albin Michel, 1991.
  • L'Amour fauve, Grasset, 1971.
  • Danse du ventre au-dessus des canons, Flammarion, 1976.
  • Pour le lieutenant Karl, Christian Bourgois, 1977.
  • Pour un chien, Grasset, 1979.
  • Une affaire d'honneur, Plon, 1983.
  • Beyrouth viva la muerte, Grasset, 1984.
  • Guynemer, l'ange de la mort, Albin Michel, 1986.
  • Mémoires barbares, Albin Michel, 1989.
  • Amours barbares, Albin Michel, 1993.
  • Un après-guerre amoureux, Albin Michel, 1995.
  • Adieu ma mère, adieu mon cœur, Albin Michel, 1996.
  • Journal, t. 1, Les années déchirement, 1925-1965, Albin Michel, 1997.
  • Journal, t. 2, Les années cavalières, 1966-1985, Albin Michel, 1998.
  • Journal, t. 3, Les années de braise, 1986-1996, Albin Michel, 1999.
  • Lettre à Dieu, Albin Michel, 2001.

Tiểu luận

[sửa | sửa mã nguồn]
  • La France sauvée par Pétain, Alger, P & G Soubiron, 1940.
  • Comme un mauvais ange, Charlot, 1946; Gallimard, 1960.
  • L'Homme à l'épée, Gallimard, 1957; Julliard, 1960.
  • Autour du drame, Julliard, 1961.
  • Passion et mort de Saint-Exupéry, Gallimard, 1951; Julliard, 1960; La Manufacture, 1987.
  • Le Grand Naufrage, Julliard, 1966; Albin Michel, 1995.
  • Turnau, Sienne, 1976 (hors commerce).
  • Éloge de Max-Pol Fouchet, Actes Sud, 1980.
  • Étranger pour mes frères, Stock, 1982.
  • Citoyen Bolis, tambour de village, Avallon, Voillot,1989.
  • Vézelay ou l'Amour fou, Albin Michel, 1990.
  • Rostropovitch, Gainsbourg et Dieu, Albin Michel, 1991.
  • Trois prières pour des pilotes, Alger, Charlot, 1942.
  • Chants et prières pour des pilotes, Charlot, 1943; Gallimard, 1948; Julliard, 1960.
  • Sept poèmes de ténèbres, Paris, 1957 (hors commerce).
  • Prière à mademoiselle Sainte-Madeleine, Charlot, 1984; Bleu du Ciel, Vézelay, 1986.
  • Chant d'amour pour Marseille, Jeanne Laffitte, 1988.
  • Cinq poèmes, Avallon, Voillot,1991.
  • La Nuit tombe, debout camarades !, Gérard Oberlé, 1991.
  • Poèmes et prières des années de guerre (1939-1945), Actes Sud, 2001.
  • Beau Sang, Gallimard, 1952; Julliard, 1960.
  • Les Cyclones, Gallimard, 1953; Julliard, 1960.
  • Le Fleuve rouge, Gallimard, 1957; Julliard, 1960.
  • La Rue des Zouaves suivi de Sa Majesté Monsieur Constantin, Julliard, 1970.
  • Lieutenant Karl, dramatique télé (Michel Wyn), INA, 1977.
  • Mort au champ d'honneur, Albin Michel, 1995.
Sách mỏng (đả kích)
  • J'accuse le général Massu, Seuil, 1972.
Truyện ngắn
  • L'Œil de loup du roi de Pharan, Sétif, 1945.
Trao đổi thư với Jean Amrouche
  • D'une amitié. Correspondance (1937-1962), Édisud, 1985.

Sách viết về Jules Roy

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Collectif et Jacques Cantier, Jules Roy et la révolution nationale: analyse d'un engagement, in Action, écriture, engagement. Actes de la journée d'Études du 5 octobre 2001. Université de Versailles Saint Quentin en Yvelines, Presses du Service Historique de l'Armée de l'Air, 2002.
  • Christian Delporte, Patrick Facon, Jeannine Lepesant-Hayat, Jules Roy: un engagement, actes du colloque organisé par le CHCSC, octobre 2001, Paris, SHAA-UVSQ, 2002.
  • Jacques Cantier, Jules Roy, les fidélités d'un rebelle, Toulouse, Privat, collection d'Histoire immédiate, 2001.
  • Jean Louis Roy, JULES ROY, dernier Vol, collection Littérature, L'Harmattan 2005, ISBN 2-7475-7535-7.
  • Jean Louis Roy, Jules Roy l'intranquille, collection Littérature témoignages, L'Harmattan 2007, ISBN 978-2-296-02646-9.
  • Jean Louis Roy et auteurs réunis par l'Association du Centenaire Jules-Roy; JULES ROY: 100 ANS, L'Harmattan 2008, ISBN 978-2-296-05812-5.
  • José Lenzini, Jules Roy, le céleste insoumis, éditions du Tell, 2007, ISBN 9-9617-7332-2.
  • Guy Dugas: Jules Roy chez Charlot. Pézenas, éd. Domens, 2007,ISBN 9-782915285-88-8
  • Catharine Savage Brosman Art as Testimony: the Work of Jules Roy, University of Florida Press, 1989, ISBN 0-8130-0915-4

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Riding, Alan (ngày 21 tháng 6 năm 2000). “Jules Roy, Algerian-Born French Writer, Dies at 92”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Twinkling Watermelon - Cảm ơn các cậu đã dịu dàng lớn lên và tỏa sáng lấp lánh
Twinkling Watermelon - Cảm ơn các cậu đã dịu dàng lớn lên và tỏa sáng lấp lánh
Có một Ha Yi Chan 18 tuổi luôn rạng rỡ như ánh dương và quyết tâm “tỏa sáng thật rực rỡ một lần” bằng việc lập một ban nhạc thật ngầu
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Về nội dung, bộ phim xoay quanh nhân vật chính là Suzu- một nữ sinh trung học mồ côi mẹ, sống cùng với ba tại một vùng thôn quê Nhật Bản
Tại sao Hamas lại tấn công Israel?
Tại sao Hamas lại tấn công Israel?
Vào ngày 7 tháng 10, một bình minh mới đã đến trên vùng đất Thánh, nhưng không có ánh sáng nào có thể xua tan bóng tối của sự hận thù và đau buồn.
Những Điều Cần Biết Khi Quyết Định Đi Làm Tại Philippines
Những Điều Cần Biết Khi Quyết Định Đi Làm Tại Philippines
Philippines GDP gấp rưỡi VN là do người dân họ biết tiếng Anh (quốc gia đứng thứ 5 trên thế giới về số người nói tiếng Anh) nên đi xklđ các nước phát triển hơn