Krzysztof Tyniec

Krzysztof Tyniec (2008)

Krzysztof Tyniec (sinh ngày 5 tháng 2 năm 1956 tại Nowa Ruda) là một diễn viên người Ba Lan.[1][2][3]

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Krzysztof Tyniec tốt nghiệp Học viện Nghệ thuật Sân khấu Quốc gia Aleksander Zelwerowicz (PWST) ở Warsaw vào năm 1980.[3] Ông diễn xuất trên sân khấu của nhiều nhà hát, tiêu biểu như Nhà hát Współczesny ở Warsaw (1982-1988), Nhà hát Ateneum (từ năm 1988), Nhà hát Dramatyczny ở Słupsk (1980-1981), Nhà hát Za Dalekim ở Warsaw (1990), Nhà hát Syrena ở Warsaw (1998, 2002) và một số nơi khác.[3]

Ngoài sự nghiệp diễn xuất trên sân khấu, các bộ phim nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của Krzysztof Tyniec là Nikt nie jest winien (1986) trong vai Stach, Panny i wdowy (1991) trong vai người giáo viên, hay phim Gra w slepca (1986) trong vai Jedrek.[1] Krzysztof Tyniec cũng là gương mặt quen thuộc trong nhiều sê-ri phim truyền hình của Ba Lan, chẳng hạn như M jak miłość (từ năm 2017) trong vai Robert, Daleko od noszy. Reanimacja (2017) trong vai Rudolf Shock, hay phim Blondynka (2018-2019) trong vai Ciasny.

Ngoài ra, Krzysztof Tyniec còn được khán giả Ba Lan biết đến trong chương trình giải trí Dancing with the Stars. Taniec z gwiazdami (2007) của đài TVN. Trong chương trình này, ông cùng bạn nhảy Kamila Kajak đạt giải 5.[4][5] Krzysztof Tyniec cũng thường lồng tiếng Ba Lan cho nhiều nhân vật trong các bộ phim hoạt hình dành cho thiếu nhi như: Goofy (từ năm 1983), Bugs Bunny (1990–1998), Genie trong phim Aladdin (1992) hay Timon trong phim Vua sư tử (1994).[2]

Năm 2014, Krzysztof Tyniec được Bộ Văn hóa và Di sản Quốc gia (Ba Lan) trao tặng Huy chương bạc Huy chương Công trạng về văn hóa - Gloria Artis vì những cống hiến nổi bật đối với văn hóa và nghệ thuật.[3][6]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “Krzysztof Tyniec”.
  2. ^ a b “Krzysztof Tyniec”. filmweb.pl (bằng tiếng Ba Lan).
  3. ^ a b c d “Krzysztof Tyniec”. filmpolski.pl (bằng tiếng Ba Lan).
  4. ^ “Krzysztof Tyniec i Kamila Kajak wytańczyli zwycięstwo!”. tvn24.pl (bằng tiếng Ba Lan).
  5. ^ “Taniec z gwiazdami V – Para VIII: Krzysztof i Kamila”. WayBackMachine (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc 7 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  6. ^ “Artyści uhonorowani medalami „Zasłużony Kulturze Gloria Artis". mkidn.gov.pl (bằng tiếng Ba Lan).

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu anime 3-gatsu no Lion
Giới thiệu anime 3-gatsu no Lion
3-gatsu no Lion(3月のライオン, Sangatsu no Raion, Sư tử tháng Ba) là series anime được chuyển thể từ manga dài kì cùng tên của nữ tác giả Umino Chika.
Giới thiệu nhân vật Mei - Jigokuraku
Giới thiệu nhân vật Mei - Jigokuraku
Mei là một Tensen trước đây liên kết với Lord Tensen nhưng đã trốn thoát sau khi không đồng ý với phương pháp mở khóa sự bất tử của Rien
Bảng xếp hạng EP các nhân vật trong Tensura
Bảng xếp hạng EP các nhân vật trong Tensura
Bảng xếp hạng năng lực các nhân vật trong anime Lúc đó, tôi đã chuyển sinh thành Slime
Quân đội Israel - Nguồn Gốc và Sức Mạnh
Quân đội Israel - Nguồn Gốc và Sức Mạnh
Đây là lời tuyên chiến đầu tiên của Israel kể từ năm 1973, tỏ rõ ý định muốn chơi tới cùng với Hamas và chắc chắn sẽ giành được chiến thắng chung cuộc.