Trong phẫu thuật thần kinh, lỗ gai được dùng làm mốc do có nhiều liên quan khá chặt chẽ với các lỗ khác trong nền sọ. Jakob Benignus Winslow mô tả lỗ gai lần đầu tiên vào thế kỷ XIII.
Lỗ gai là một lỗ nền sọ[a] chọc qua xương bướm[b] nằm trong hố sọ giữa.[4]:771 Đây là một trong hai lỗ nằm ở cánh lớn xương bướm. Lỗ bầu dục nằm ở vị trí ngay phía trước - trong lỗ gai.[4]:776 Gai bướm ở vị trí sau - trong[c] lỗ gai. Phía ngoài lỗ gai là hố hàm dưới[d][4]:873 và phía sau là vòi Eustachi.[e][5]
Lỗ gai có nhiều biến thể về kích thước và vị trí. Trong một số trường hợp hiếm gặp không xuất hiện lỗ gai, hoặc lỗ gai chỉ có ở một bên. Khi đó, động mạch màng não giữa đi vào hộp sọ[f] bằng cách đi xuyên qua lỗ bầu dục.[6] Ngược lại, trong một số ít trường hợp (dưới 1%) xuất hiện thêm một lỗ gai, nhất là khi người đó tồn tại hai động mạch màng não giữa cùng bên.[5]
Lỗ gai có thể xuyên qua xương bướm ở đỉnh mỏm gai, hoặc nằm dọc theo mặt trong của mỏm.[5]
Ở trẻ sơ sinh, lỗ gai dài khoảng 2,25 mm và ở người lớn dài khoảng 2,56 mm. Chiều rộng của lỗ gai dao động ở người lớn từ 1,05 mm đến khoảng 2,1 mm.[7] Đường kính trung bình của lỗ gai ở người lớn là 2,63 mm.[8]
Trong một nghiên cứu về sự phát triển của lỗ tròn, lỗ bầu dục và lỗ gai, quan sát thấy sự hình thành lỗ gai sớm nhất vào tháng thứ tám sau sinh và muộn nhất là vào năm bảy tuổi. Trong các nghiên cứu hộp sọ, phần lớn lỗ có hình tròn.[8]Dây chằng bướm - hàm[g] có nguồn gốc phôi thai học là cung mang thứ nhất (cung họng thứ nhất)[h] và thường gắn vào gai xương bướm, có thể được tìm thấy điểm gắn ở bờ lỗ.[5][10]
Do ở vị trí khá rõ ràng, lỗ gai được coi như một mốc giải phẫu trong phẫu thuật thần kinh. Lấy lỗ gai làm mốc, phẫu thuật viên xác định được các lỗ nền sọ khác, thần kinh hàm dưới, hạch sinh ba (của thần kinh sinh ba - CN V)[k], lỗ bầu dục và lỗ tròn. Lỗ gai có liên quan đến quá trình cầm máu trong phẫu thuật chấn thương.[5]
Lỗ gai lần đầu tiên được nhà giải phẫu học người Đan Mạch Jakob Benignus Winslow mô tả vào thế kỷ XVIII. Sở dĩ được đặt tên như vậy vì lỗ liên quan với mỏm gai nằm trên cánh lớn xương bướm. Tuy nhiên, do biến cách danh từ[l] không chính xác, nghĩa đen của thuật ngữ lại là là "một cái lỗ đầy gai" (tiếng Latinh: foramen spinosum). Trong thực tế, danh pháp chính xác nhưng không được sử dụng sẽ phải là foramen spinae.[5]
^Sọ người có nhiều "lỗ" để cho thần kinh, động mạch, tĩnh mạch và một số cấu trúc giải phẫu chui qua. Những cái lỗ này có kích thước, số lượng khác nhau và phụ thuộc vào độ tuổi [2][3]
^Xương bướm là xương đơn (chỉ có một xương, còn xương kép là hai xương nằm ở hai bên cơ thể) nằm ở nền sọ
^Vòi Eustachi hay vòi tai, là một cái ống thông vùng mũi họng với vùng tai giữa
^Hộp sọ (tiếng Anh: Cranial cavity) là không gian bên trong hộp sọ, tạo bởi 8 xương sọ (gọi là sọ thần kinh hay sọ mặt), chứa não
^Dây chằng bướm - hàm (tiếng Anh: Sphenomandibular ligament) là dây chằng gắn gai xương bướm với lưỡi hàm dưới, một mẩu xương nhô ra để che lỗ hàm dưới ở phía dưới nó[9]
^Cung mang thứ nhất (tiếng Anh: first pharyngeal arch) là một cấu trúc giải phẫu thời kỳ phôi thai chứa sụn, phần sau là mỏm xương hàm trên, và phần trước của nó là sụn Meckel hay là mỏm lồi cầu xương hàm dưới
^Xương thái dương là xương chẵn, gồm ba phần: phần trai, phần đá và phần nhĩ. Trai thái dương (tiếng Anh: Temporal squama) là phần tạo nên thành bên của hộp sọ[11]
^ Trai thái dương tiếp khớp ở trên với bờ dưới xương đỉnh, ở trước với cánh lớn xương bướm (tạo thành đường khớp bướm - trai) và ở sau với xương chẩm[11]
^Thần kinh sinh ba (hay thần kinh sọ V, tiếng Anh: trigeminal nerve) là thần kinh chi phối cảm giác mặt và chi phối vận động như cơ cắn và cơ nhai. Đây là thần kinh phức tạp nhất trong số các dây thần kinh sọ
^Patron V, Berkaoui J, Jankowski R, Lechapt-Zalcman E, Moreau S, Hitier M (tháng 9 năm 2015). “The forgotten foramina: a study of the anterior cribriform plate”. Surg Radiol Anat. 37 (7): 835–40. doi:10.1007/s00276-015-1471-2.
^ abcdDrake, Richard L.; Vogl, Wayne; Tibbitts, Adam W.M. Mitchell; illustrations by Richard; Richardson, Paul (2005). Gray's anatomy for students. Philadelphia: Elsevier/Churchill Livingstone. ISBN978-0-8089-2306-0.
^Lang J, Maier R, Schafhauser O (1984). “Postnatal enlargement of the foramina rotundum, ovale et spinosum and their topographical changes”. Anatomischer Anzeiger. 156 (5): 351–87. PMID6486466.
^ abYanagi S (1987). “Developmental studies on the foramen rotundum, foramen ovale and foramen spinosum of the human sphenoid bone”. The Hokkaido Journal of Medical Science. 62 (3): 485–96. PMID3610040.
GSTS. BS. Trịnh Văn Minh (2017). Giải phẫu người (Tập 1: Giải phẫu học đại cương. Chi trên - Chi dưới - Đầu - Mặt - Cổ). Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. tr. 401–403, 427 và 448. ISBN978-604-0-00744-5.
Frank H.Netter, MD (2017). Atlas Giải phẫu người, Vietnamese Edition (ấn bản thứ 6). Nhà xuất bản Y học, ELSEVIER. ISBN978-604-66-1320-6.
Frank H.Netter, MD (2017). Atlas of Human Anatomy (ấn bản thứ 7). ELSEVIER MASSON. ISBN978-604-66-1320-6.
Frank H.Netter, MD (2017). Atlas d'anatomie humaine (ấn bản thứ 5). ELSEVIER MASSON. ISBN978-229-47-1297-5.
Bài giảng Giải phẫu học, PGS Nguyễn Quang Quyền, tái bản lần thứ mười lăm
PGS.TS Nguyễn Quang Huy (2017). Giải phẫu người (ấn bản thứ 2). Nhà xuất bản Y học. ISBN978-604-66-2933-7.
Nhìn chung, Lizbeth là một phiên bản khác của Kyoko, máu trâu giáp dày, chia sẻ sát thương và tạo Shield bảo vệ đồng đội, đồng thời sở hữu DEF buff và Crit RES buff cho cả team rất hữu dụng
Tiếp diễn tại chiến trường Shinjuku, Sukuna ngạc nhiên trước sự xuất hiện của con át chủ bài Thiên Thần với chiêu thức “Xuất Lực Tối Đa: Tà Khứ Vũ Thê Tử”.