Logic (hợp lý, hữu lý, hàm lý) hay luận lý học, từ tiếng Hy Lạp cổ đại λόγος (logos), nghĩa nguyên thủy là từ ngữ, hoặc điều đã được nói, (nhưng trong nhiều ngôn ngữchâu Âu đã trở thành có ý nghĩa là suy nghĩ hoặc lập luận hay lý trí). Logic thường được nhắc đến như là một ngành nghiên cứu về tiêu chí đánh giá các luận cứ, mặc dù định nghĩa chính xác của logic vẫn là vấn đề còn đang được bàn cãi giữa các triết gia. Tuy nhiên khi môn học được xác định, nhiệm vụ của nhà logic học vẫn như cũ: làm đẩy mạnh tiến bộ của việc phân tích các suy luận có hiệu lực và suy luận ngụy biện để người ta có thể phân biệt được luận cứ nào là hợp lý và luận cứ nào có chỗ không hợp lý.
Theo truyền thống, logic được nghiên cứu như là một nhánh của triết học. Kể từ giữa thế kỷ 19 logic đã thường được nghiên cứu trong toán học và luật. Gần đây nhất logic được áp dụng vào khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo. Là một ngành khoa học hình thức, logic nghiên cứu và phân loại cấu trúc của các khẳng định và các lý lẽ, cả hai đều thông qua việc nghiên cứu các hệ hình thức của việc suy luận và qua sự nghiên cứu lý lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên. Tầm bao quát của logic do vậy là rất rộng, đi từ các đề tài cốt lõi như là nghiên cứu các lý lẽ ngụy biện và nghịch lý, đến những phân tích chuyên gia về lập luận, chẳng hạn lập luận có xác suất đúng và các lý lẽ có liên quan đến quan hệ nhân quả. Ngày nay, logic còn được sử dụng phổ biến trong lý thuyết lý luận.
Qua suốt quá trình lịch sử, đã có nhiều sự quan tâm trong việc phân biệt lập luận tốt và lập luận không tốt, và do đó logic đã được nghiên cứu trong một số dạng ít nhiều là quen thuộc đối với chúng ta. Logic Aristotle chủ yếu quan tâm đến việc dạy lý luận thế nào cho tốt, và ngày nay vẫn được dạy với mục đích đó, trong khi trong logic toán học và triết học phân tích (analytical philosophy) người ta nhấn mạnh vào logic như là một đối tượng nghiên cứu riêng, và do vậy logic được nghiên cứu ở một mức độ trừu tượng hơn.
Các quan tâm về các loại logic khác nhau cho thấy rằng logic không phải là một ngành có thể nghiên cứu tách biệt. Trong khi logic thường có vẻ sự thúc đẩy chính nó, môn học này phát triển tốt nhất khi lý do mà chúng ta quan tâm đến logic được đặt ra một cách rõ ràng.
Logic được nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này thường được thực hiện bằng cách áp dụng phương pháp hình thức của nó vào các chủ đề nhất định nằm ngoài phạm vi logic, chẳng hạn như trong đạo đức học hoặc khoa học máy tính.[1] Ngoài ra, bản thân logic cũng có thể là đối tượng nghiên cứu của các lĩnh vực khác.
Triết học logic là lĩnh vực triết học nghiên cứu về phạm vi và bản chất của logic.[2] Nó tra xét các tiền giả định (presupposition) ẩn trong logic, tìm cách xác định những khái niệm cơ bản của logic hoặc các mặc định siêu hình học có liên hệ với những khái niệm đó.[3] Nó cũng quan tâm đến việc phân loại các hệ thống logic và các ràng buộc bản thể luận kéo theo những hệ thống ấy.[4]Logic triết học là một lĩnh vực nằm trong phạm trù triết học logic. Nó nghiên cứu ứng dụng của các phương pháp logic trong các vấn đề triết học của các ngành như siêu hình học, đạo đức học và tri thức luận.[5] Những ưng dụng kiểu này thường xuất hiện dưới dạng các hệ thống logic mở rộng (extended) hoặc phi hình thức (deviant).[6]
Siêu logic học (Metaphysics) là ngành triết học nghiên cứu các đặc tính của các hệ thống logic hình thức. Ví dụ, khi một hệ thống hình thức mới được phát triển, các nhà siêu logic học sẽ nghiên cứu nó nhằm xác định những công thức nào có thể được chứng minh. Họ cũng sẽ tìm hiểu xem liệu có thể phát triển một thuật toán nhằm tìm ra minh chứng cho mỗi công thức hay không, đồng thời xác minh tất cả các công thức khả chứng có phải là hằng đúng (tautology) không. Cuối cùng, họ sẽ so sánh nó với các hệ thống logic khác để tìm ra những đặc điểm khác biệt. Một vấn đề then chốt của siêu logic học là mối liên hệ giữa cú pháp và ngữ nghĩa. Luật cú pháp của một hệ thống hình thức quy định phương cách suy đoán kết luận từ các tiền đề, tức là phương cách xây dựng minh chứng. Ngữ nghĩa của một hệ thống hình thức quyết định phát biểu nào đúng và phát biểu nào sai. Điều này quy định tính hợp lý của lý luận; sở dĩ vì, để lý luận hợp lý, không thể có chuyện tiền đề đúng mà kết luận sai. Mối quan hệ giữa cú pháp và ngữ nghĩa còn ảnh hưởng đến các vấn đề như: liệu tất cả các lý luận hợp lý có khả chứng hay không, và liệu tất cả các lý luận khả chứng có hợp lý hay không. Các nhà siêu logic cũng đánh giá xem các hệ thống logic đã hoàn thiện chưa, có vững chãi và có chặt chẽ không. Ngoài ra, họ cũng quan tâm đến tính khả quyết và sức biểu đạt mà hệ thống sở hữu. Các nhà siêu logic học dựa khá nhiều vào lập luận toán học trừu tượng khi thẩm tra và xây dựng các minh chứng siêu logic học.[7]
Thuật ngữ "logic toán học" (mathematical logic) đôi khi được dùng đồng nghĩa với "logic hình thức". Tuy nhiên, nếu giải nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ này chỉ đến sự nghiên cứu logic trong toán học. Các phân ngành lớn của nó bao gồm lý thuyết mô hình (model theory), lý thuyết chứng minh (proof theory), lý thuyết tập hợp, và lý thuyết tính toán.[9] Nghiên cứu logic toán học chủ yếu xoay quanh các đặc tính toán học của các hệ thống logic hình thức. Tuy nhiên, nó cũng bao gồm các nỗ lực để vận dụng logic vào việc phân tích các suy luận toán học, hoặc để thiết định nền tảng của toán học dựa trên logic.[10] Chủ đề "nền tảng của toán học" từng là mối bận tâm lớn đối với ngành logic toán học hồi đầu thế kỷ thứ 20, chủ trương theo đuổi cái gọi là chủ nghĩa duy logic tiên phong bởi các triết gia-logic gia tiền bối như Gottlob Frege, Alfred North Whitehead và Bertrand Russell. Đối với những học giả duy logic chủ nghĩa, các lý thuyết toán học ắt phải luôn đúng về mặt logic, và họ muốn chứng tỏ điều này bằng cách rút gọn toàn bộ toán học thành logic. Nhiều người đã dốc công sức để hiện thực hóa giả định này nhưng đều thất bại, từ sự sụp đổ của cơ đồ logic học Frege trong Grundgesetze trước nghịch lý Russell, đến sự lụn bại của chương trình Hilbert trước các định lý bất toàn của Gödel.[11]
Lý thuyết tập hợp vốn bắt nguồn từ nghiên cứu vô hạn của Georg Cantor, và nó bấy lâu đã là ngọn nguồn của các vấn đề logic toán học đầy thử thách và quan trọng. Một số ví dụ có thể kể đến là định lý đường chéo Cantor, tình trạng của tiên đề chọn, nghi vấn về sự độc lập trong giả thuyết continuum và các tranh cãi đương đại xoay quanh các tiên đề số đếm lớn.[12]
Lý thuyết tính toán là phân ngành logic toán học nghiên cứu về các quy trình hiệu quả nhằm giải quyết các vấn đề tính toán. Đơn cử như liệu ta có thể kiếm tìm một quy trình cơ học mà có khả năng xác định một số nguyên dương là số nguyên tố hay không. Một trong những mục tiêu chính của nó là tìm hiểu xem một vấn đề toán học có thể được giải quyết bằng thuật toán hay không. Lý thuyết tính toán vận dụng đa dạng các công cụ và mô hình lý thuyết, ví dụ như máy Turing, để khám phá điều này.[13]
Hàng trên: Aristoteles, triết gia đặt nền móng cho quy điển triết học Tây phương;[14] và Avicenna, triết gia đã có công thay thế logic học Aristoteles trong diễn ngôn Hồi giáo.[15] Hàng dưới: William xứ Ockham, một trong những triết gia kinh viện nổi tiếng thời trung cổ;[16] và Gottlob Frege, một trong những người có công sáng lập logic toán học hiện đại.[17]
Logic học đã phát triển độc lập trong nhiều nền văn hóa cổ đại khác nhau. Một trong những nhân vật có những đóng góp sớm nhất là Aristoteles, người đã phát triển logic hạn từ (term logic) trong hai trước tác Organon và Phân tích thứ nhất.[18] Ông đã giới thiệu các khái niệm tam đoạn luận giả sử (hypothetical syllogism)[19] và logic mốt thời gian (temporal modal logic).[20] Các phát kiến của Aristoteles cũng bao gồm logic quy nạp (inductive logic)[21] cũng như đàm luận về các khái niệm mới như hạn từ, vị từ, tam đoạn luận và mệnh đề. Logic Aristoteles được đánh giá rất cao ở châu Âu và Trung Đông vào thời cổ điển và trung cổ. Nó tiếp tục được sử dụng ở phương Tây cho tới đầu thế kỷ thứ 19.[22] Tới nay thì nhiều công trình logic đã đánh đổ thế độc tôn của logic Aristoteles, song các thấu hiểu then chốt của nó vẫn có ảnh hưởng với các hệ thống logic hiện đại.[23]
Bagaria, Joan (2021). “Set Theory”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2022.
Bobzien, Susanne (2020). “Ancient Logic: 2. Aristotle”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2022.
Brody, Boruch A. (2006). Encyclopedia of philosophy. 5. Donald M. Borchert (ấn bản thứ 2). Thomson Gale/Macmillan Reference US. tr. 535–536. ISBN978-0-02-865780-6. OCLC61151356. The two most important types of logical calculi are propositional (or sentential) calculi and functional (or predicate) calculi. A propositional calculus is a system containing propositional variables and connectives (some also contain propositional constants) but not individual or functional variables or constants. In the extended propositional calculus, quantifiers whose operator variables are propositional variables are added.
Coppock, Elizabeth; Champollion, Lucas (2019). Invitation to formal semantics(PDF). tr. 3–4. Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2021.
Douven, Igor (2021). “Abduction”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2021.
Dowden, Bradley. “Fallacies”. Internet Encyclopedia of Philosophy. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2021.
van Eemeren, Frans H.; Garssen, Bart; Krabbe, Erik C. W.; Snoeck Henkemans, A. Francisca; Verheij, Bart; Wagemans, Jean H. M. (2021). “Informal Logic”. Handbook of Argumentation Theory (bằng tiếng Anh). Springer Netherlands. tr. 1–45. doi:10.1007/978-94-007-6883-3_7-1. ISBN978-94-007-6883-3. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2022.
Evans, Jonathan St. B. T. (2005). “8. Deductive Reasoning”. Trong Morrison, Robert (biên tập). The Cambridge Handbook of Thinking and Reasoning (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 169. ISBN978-0-521-82417-0.
Ewald, William (2019). “The Emergence of First-Order Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2023.
Falguera, José L.; Martínez-Vidal, Concha; Rosen, Gideon (2021). “Abstract Objects”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2022.
Gamut, L.T.F. (1991). Logic, Language and Meaning Vol 1: Introduction to Logic. University of Chicago Press. 5.5. ISBN978-0-226-28085-1.
Garson, James (2023). “Modal Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2023.
Groarke, Louis F. “Aristotle: Logic”. Internet Encyclopedia of Philosophy. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2022.
Groarke, Leo (2021). “Informal Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
Gómez-Torrente, Mario (2019). “Logical Truth”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.
Gödel, Kurt (1984). “Russell's mathematical logic”. Trong Benacerraf, Paul; Putnam, Hilary (biên tập). Philosophy of Mathematics: Selected Readings (ấn bản thứ 2). Cambridge University Press. tr. 447–469. ISBN978-0-521-29648-9. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2022.
Hájek, Petr (3 tháng 9 năm 2006). “Fuzzy Logic”. Stanford Encyclopedia of Philosophy (bằng tiếng Anh). Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2023.
Haaparanta, Leila (2009). “1. Introduction”. The development of modern logic. Oxford University Press. tr. 4–6. ISBN978-0-19-513731-6.
Hansen, Hans (2020). “Fallacies”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2021.
Hawthorne, James (2021). “Inductive Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2022.
Hurley, Patrick J. (2015). “4. Categorical Syllogisms”. Logic: The Essentials (bằng tiếng Anh). Wadsworth. tr. 189–237. ISBN978-1-305-59041-0. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
Irvine, Andrew David (2022). “Bertrand Russell”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2022.
Jacquette, Dale (2006). “Introduction: Philosophy of logic today”. Philosophy of Logic. North Holland. tr. 1–12. ISBN978-0-444-51541-4. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2021.
Janssen, Theo M. V.; Zimmermann, Thomas Ede (2021). “Montague Semantics”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. tr. 3–4. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2023.
King, Jeffrey C. (2019). “Structured Propositions”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2021.
Klement, Kevin C. (1995a). “Frege, Gottlob”. Internet Encyclopedia of Philosophy. ISSN2161-0002. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2022.
Klement, Kevin C. (1995b). “Propositional Logic”. Internet Encyclopedia of Philosophy. ISSN2161-0002. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2022.
Kusch, Martin (2020). “Psychologism”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2021.
MacFarlane, John (2017). “Logical Constants”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2021.
Mackie, J. L. (1967). “Fallacies”. encyclopedia.com. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2021.
Marenbon, John (2021). “Anicius Manlius Severinus Boethius”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University.
McKeon, Matthew. “Logical Consequence”. Internet Encyclopedia of Philosophy. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
Michaelson, Eliot; Reimer, Marga (2019). “Reference”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2021.
Moschovakis, Joan (2022). “Intuitionistic Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy: Introduction. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2023.
Nolt, John (2021). “Free Logic: 1. The Basics”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2022.
Online Etymology Staff. “logic”. etymonline.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2021.
Partee, Barbara H. (2016). Aloni, Maria; Dekker, Paul (biên tập). The Cambridge handbook of formal semantics. Cambridge University Press. ISBN978-1-107-02839-5.
Pietroski, Paul (2021). “Logical Form: 1. Patterns of Reason”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2021.
Priest, Graham; Tanaka, Koji; Weber, Zach (2018). “Paraconsistent Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021.
Rathjen, Michael; Sieg, Wilfried (2022). “Proof Theory”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
Rendsvig, Rasmus; Symons, John (2021). “Epistemic Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2023.
Sagüillo, José M. (2014). “Hintikka on Information and Deduction”. Teorema: Revista Internacional de Filosofía. 33 (2): 75–88. ISSN0210-1602. JSTOR43047609.
Scott, John; Marshall, Gordon (2009). “analytic induction”. A Dictionary of Sociology (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. ISBN978-0-19-953300-8. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2022.
Shapiro, Stewart; Kouri Kissel, Teresa (2022). “Classical Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2023.
Smith, Robin (2022). “Aristotle's Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2023.
Spade, Paul Vincent; Panaccio, Claude (2019). “William of Ockham”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University.
Sternberg, Robert J. “Thought”. Encyclopædia Britannica (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2021.
Stump, David J. “Fallacy, Logical”. encyclopedia.com. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2021.
Talbott, William (2016). “Bayesian Epistemology”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2021.
Väänänen, Jouko (2021). “Second-order and Higher-order Logic”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
Willman, Marshall D. (2022). “Logic and Language in Early Chinese Philosophy”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Metaphysics Research Lab, Stanford University. Introduction. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2023.
Finkelstein, David (2012). “Matter, Space, and Logic”. Trong Cohen, Robert S.; Wartofsky, Marx W. (biên tập). Boston Studies in the Philosophy of Science: Proceedings of the Boston Colloquium for the Philosophy of Science 1966/1968 (bằng tiếng Anh). Springer Science & Business Media. ISBN978-94-010-3381-7.
Affiliate Marketing là một phương pháp tiếp thị trực tuyến giúp bạn kiếm tiền bằng cách quảng bá sản phẩm hoặc dịch vụ của người khác và nhận hoa hồng (commission) khi có người mua hàng thông qua liên kết bạn cung cấp
Momonga's Red Orb Một trong những (World Item) Vật phẩm cấp độ thế giới mạnh mẽ nhất trong Đại Lăng Nazarick và là "lá át chủ bài" cuối cùng của Ainz .