Lydia Cacho

Lydia Cacho
Sinh12 tháng 4, 1963 (61 tuổi)
thành phố Mexico, México
Tổ chứcRed Internacional de Periodistas con Visión de Género
Giải thưởngGiải Ginetta Sagan cho quyền Phụ nữ và Trẻ em của Ân xá Quốc tế (2007)
Giải Guillermo Cano cho Tự do Báo chí trên thế giới (2008)
Huy chương Wallenberg (2009)
Giải Dũng cảm của International P.E.N (Văn bút Quốc tế) (2010)

Lydia Cacho Ribeiro (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1963 tại thành phố Mexico) là nhà văn, nhà báo, nhà tranh đấu cho nữ quyềnnhà hoạt động nhân quyền người México.[1] Bà là thành viên của tổ chức Red Internacional de Periodistas con Visión de Género.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Lydia Cacho Ribeiro là con của nhà tâm lý học và nhà tranh đấu cho nữ quyền - Paulette Ribeiro - gốc Pháp-Bồ Đào Nha, di cư sang México trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai, và kết hôn với Oscar Cacho, một kỹ sư cơ khí quân sự.[1] Bản thân Cacho đã gặp một người nước ngoài định cư ở Cancún, Quintana Roo năm 1985.

Năm 2000, bà cùng một số người khác lập ra "Centro Integral de Atención a las Mujeres" (Trung tâm chăm sóc toàn diện cho phụ nữ), để chăm sóc cho các phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đìnhlạm dụng tình dục.

Bà bắt đầu viết mục văn hóa cho báo Novedades de Cancún rồi một thập kỷ sau viết các bài về nạn mãi dâm của những gái điếm CubaArgentina trong thành phố. Năm 2003, Cacho vết các bài về lạm dụng tình dục của các trẻ vị thành niên cho báo Por Esto trong đó có một bài về một cô gái bị chủ một khách sạn lạm dụng tình dục. ("A bote pronto: Lydia Cacho, periodista", Life & Style, November 2006, #27).

Los Demonios del Edén

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau đó Cacho viết quyển "Los Demonios del Edén" (Những con quỷ ở Eden) trong đó bà cáo buộc Jean Succar Kuri tham gia vào một ổ ấu dâmmãi dâm, dựa trên các lời khai chính thức từ các nạn nhân của ông ta và thậm chí cả một đoạn video (quay bằng camera giấu kín). Cuốn sách đề cập đến cả các chính khách quan trọng như Emilio Gamboa PatrónMiguel Ángel Yunes cũng tham gia, và nói rằng Kamel Nacif Borge, một doanh nhân Puebla, đã che chở Succar Kuri.

Nacif Borge đã kiện Cacho về tội phỉ bángPuebla, và một nhóm cảnh sát của tiểu bang đã bắt giữ bà bất hợp pháp ở Quintana Roodẫn độ từ tiểu bang này sang tiểu bang khác. Bà nói bà không biết lý do mình bị bắt vì trước đó đã không nhận được trát hầu tòa. Bà nộp tiền phạt và được trả tự do.

Ngày 14.2.2006, nhật báo La Jornada của thành phố Mexico đã tiết lộ nhiều cuộc nói chuyện điện thoại giữa Nacif Borge và Mario Marín, thống đốc tiểu bang Puebla, khiến cho phương tiện truyền thông bàn luận sôi nổi. Trong các cuộc điện đàm kể trên, trước khi bắt giữ Cacho, Marín và Nacif Borge đã bàn việc đưa Cacho vào nhà tù như một lợi thế, sẽ cho đánh đập và đối xử tàn nhẫn khi giam tù để làm cho bà câm họng.[2][3]

Ngày 29.11.2007, Tòa án Tối cao Mexico đã phán quyết là thống đốc Marín không vi phạm luật trong việc bắt giam và quấy nhiễu Cacho,[4] sau đó Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã khuyên bà nên rời khỏi nước và cung cấp nơi tỵ nạn chính trị, hỗ trợ pháp lý, cùng quyền đưa vụ việc ra trước các tòa án quốc tế.[5][6]

Trong khi bị giam giữ, Cacho đã được trao Premio Francisco Ojeda al Valor Periodístico (Giải Francisco Ojeda cho Sự dũng cảm trong nghề báo).[7]

Tháng 5 năm 2006, Cacho đã đưa vụ giết các phụ nữ ở Ciudad Juárez mà không được giải quyết ra để kêu gọi hành động chống việc lạm dụng phụ nữ ở Mexico mà không bị trừng phạt.

Điều khiến cho nước ngoài kinh dị là việc phát hiện thường xuyên các phụ nữ bị giết mà tử thi được khám thấy các kiểu lạm dụng tình dục, cưỡng hiếp, mutilation (cắt xẻo một bộ phận thân thể) lặp đi lặp lại và bị vứt bỏ như đồ bỏ đi trong cảnh thương tâm ở hoang mạc và các vùng ngoại ô của Ciudad Juárez.

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Ấn phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Las provincias del alma, 2003, Demac.
  • Los Demonios del Edén. El poder que protege a la pornografía infantil (2005) Rústica: 224 p. Grijalbo Random House Mondadori, ISBN 968-5957-58-4. México.
  • Esta Boca es mía, Editorial Planeta, 2006, México.
  • Memorias de una infamia, con prólogo de Carmen Aristegui (2007), Rústica: 271 p., Grijalbo Random House Mondadori, ISBN 978-970-810-143-1. México.
  • Muérdele el corazón, novela, (2005) Plaza y Janés, México.
  • Memorias de una infamia,edición española con prólogo de Rosa Montero (2008),
  • Con mi Hij@ no - Manual para prevenir, entender y sanar el abuso sexual, 2008
  • Memorias de una infamia. Publicado en Suecia con título: "Jag låter mig inte skrämmas", 2009
  • Esclavas del poder, investigación periodística con historias contadas a la autora por mujeres y niñas que sobrevivieron a las redes mundiales de trata de personas. 2010.
  • Mujer delfín: canción cotidiana de una mujer mexicana, Mérida, Yuc.: Maldonado Editores, 1995.
  • Sklaverei. Im Inneren des Milliardengeschäfts Menschenhandel, Fischer, Frankfurt 2011, ISBN 978-3-10-010010-8 OCLC 60585430

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Lydia Cacho Ribeiro Lưu trữ 2018-07-14 tại Wayback Machine tiểu sử ngắn trên Writers.Net
  2. ^ ''Mi gober, tú eres el héroe'': Kamel Nacif a Mario Marín La Jornada,, ngày 14 tháng 2 năm 2006
  3. ^ Exige PRD renuncia a gobernador por caso Lidia Cacho Lưu trữ 2008-07-06 tại Wayback Machine El Universal, ngày 14 tháng 2 năm 2006
  4. ^ Mexican Court Finds No Violation of Rights in Jailing of Journalist, New York Times, ngày 30 tháng 11 năm 2007.
  5. ^ ONU aconseja a Cacho dejar México Lưu trữ 2012-03-14 tại Wayback Machine El Universal, ngày 16 tháng 2 năm 2008.
  6. ^ “Revela Lydia Cacho: La ONU le recomendó abandonar el país”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2011.
  7. ^ Premio al valor periodístico para Lydia Cacho
  8. ^ “2007 Recipient of the Ginetta Sagan Award”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2011.
  9. ^ “IWMF”. Truy cập 22 tháng 3 năm 2015.
  10. ^ 2008 UNESCO/Guillermo Cano World Press Freedom Prize awarded to Mexican reporter Lydia Cacho Ribeiro, UNESCO, ngày 9 tháng 4 năm 2008.
  11. ^ “Mexican journalist Lydia Cacho receives PEN prize”. The Hindu. Truy cập 22 tháng 3 năm 2015.
  12. ^ “Taraf's Altan, Mexican journalist Cacho receive Dink award”. TodaysZaman. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2011. Truy cập 22 tháng 3 năm 2015.
  13. ^ “The International Hrant Dink Award 2011”. Truy cập 22 tháng 3 năm 2015.
  14. ^ “2011 - Lydia Cacho och Roberto Saviano”. Olof Palmes minnesfond. ngày 23 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2012.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tìm hiểu tổ chức Shadow Garden -  The Eminence In Shadow
Tìm hiểu tổ chức Shadow Garden - The Eminence In Shadow
Shadow Garden (シャドウガーデン, Shadou Gāden?) là một tổ chức ẩn bí ẩn được thành lập bởi Cid Kagenō còn được gọi là Shadow.
"Chuyện người chuyện ngỗng": Đồng hành cùng vật nuôi thay đổi cuộc đời bạn như thế nào?
Rất có thể bạn và gia đình của bạn đã từng nuôi thú cưng, mà phổ biến nhất có lẽ là chó mèo.
Chân dung Drew Gilpin Faust - Hiệu trưởng Đại học Harvard
Chân dung Drew Gilpin Faust - Hiệu trưởng Đại học Harvard
Đó là những lời khẳng định đanh thép, chắc chắn và đầy quyền lực của người phụ nữ đang gánh trên vai ngôi trường đại học hàng đầu thế giới
Taxi Driver: Muôn kiểu biến hình của anh chàng tài xế vạn người mê Kim Do Ki
Taxi Driver: Muôn kiểu biến hình của anh chàng tài xế vạn người mê Kim Do Ki
Trong các bộ phim mình từng xem thì Taxi Driver (Ẩn Danh) là 1 bộ có chủ đề mới lạ khác biệt. Dựa trên 1 webtoon nổi tiếng cùng tên