Trong logic cổ điển, mâu thuẫn bao gồm một sự không tương thích logic giữa hai hay nhiều mệnh đề. Nó xảy ra khi các mệnh đề, được thực hiện cùng nhau, đưa ra hai kết luận thường là nghịch đảo của nhau về mặt logic. Minh họa một khuynh hướng chung trong logic ứng dụng, định luật không mâu thuẫn của Aristotle nói rằng "Người ta không thể nói về một cái gì đó vừa là đúng vừa là sai trong cùng một khía cạnh và cùng một lúc."[1]
Mâu thuẫn (chữ Hán: 矛盾) ban đầu là chỉ một cặp binh khí dùng trong chiến tranh thời xưa.
Truyện kể rằng, có người thương gia nọ thoạt đầu đi bán mâu, rêu rao rằng: "Mâu của tôi đâm cái gì cũng thủng". Rồi sau đó ông ta cũng bán thuẫn và cũng tự hào: "Thuẫn của tôi không có gì đâm thủng được". Một vị khách đi đường thấy thế cười hỏi: "Vậy nếu tôi lấy cái mâu của ông đâm cái thuẫn của ông thì sao? Thủng hay không thủng?". Thương gia nọ bí thế, chẳng biết trả lời thế nào, vì nếu thủng chứng tỏ thuẫn kém, còn không thủng chứng tỏ mâu kém, thế nên kết quả nào cũng sẽ khiến ông ta bẽ mặt. Và thế là từ "mâu thuẫn" ra đời.
Bằng cách tạo ra một nghịch lý, cuộc đối thoại Euthydemus của Plato cho thấy sự cần thiết của khái niệm mâu thuẫn. Trong cuộc đối thoại sau đó, Dionysodorus phủ nhận sự tồn tại của "mâu thuẫn", trong khi chính Socrates đang mâu thuẫn với ông:
Thật vậy, Dionysodorus đồng ý rằng "không có thứ gọi là ý kiến sai... không có thứ gọi là thiếu hiểu biết" và yêu cầu Socrates phải "bác bỏ lời tôi". Socrates trả lời "Nhưng làm thế nào tôi có thể bác bỏ lời ông, nếu, như ông nói rằng điều giả dối là không thể có?".[2]
Những người tuân theo lý thuyết nhận thức luận của chủ nghĩa kết hợp thường cho rằng như một điều kiện cần thiết của sự biện minh của một niềm tin, niềm tin đó phải là một phần của một hệ thống niềm tin không mâu thuẫn về mặt logic. Một số nhà biện chứng, bao gồm cả Graham Priest, đã lập luận rằng sự gắn kết có thể không đòi hỏi sự nhất quán.[3]
Một mâu thuẫn thực dụng xảy ra khi chính tuyên bố của lập luận mâu thuẫn với những tuyên bố mà nó có ý nghĩa. Một sự mâu thuẫn phát sinh, trong trường hợp này, bởi vì hành động nói ra, thay vì nội dung của những gì được nói, làm suy yếu kết luận của nó.[4]
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng: Mâu thuẫn - với nguồn gốc từ chủ nghĩa Hêghen - thường đề cập đến một sự đối lập vốn tồn tại trong một cảnh giới, một lực lượng hoặc đối tượng thống nhất. Mâu thuẫn này, trái ngược với suy nghĩ siêu hình, không phải là một điều khách quan, bởi vì các lực lượng mâu thuẫn này tồn tại trong thực tế khách quan, không triệt tiêu lẫn nhau, mà thực sự xác định sự tồn tại của nhau. Theo lý thuyết mácxít, một mâu thuẫn như vậy có thể được tìm thấy, ví dụ, trong thực tế rằng:
Lý thuyết Hegel và Marxist quy định rằng bản chất biện chứng của lịch sử sẽ dẫn đến sự khuất phục, hoặc tổng hợp, của những mâu thuẫn của nó. Do đó, Marx đã quy định rằng lịch sử sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển thành một chủ nghĩa xã hội, nơi các phương tiện sản xuất sẽ phục vụ ngang nhau cho cả tầng lớp xã hội bị bóc lột và phải chịu đau khổ, do đó giải quyết mâu thuẫn trước đó giữa (a) và (b).[5]
Tiểu luận triết học Mâu thuẫn luận (1937) của Mao Trạch Đông đã phát triển luận điểm của Marx và Lenin và cho rằng tất cả sự tồn tại là kết quả của mâu thuẫn.[6]
|journal=
(trợ giúp)