Demiral thi đấu cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2020 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Merih Demiral[1] | ||
Ngày sinh | 5 tháng 3, 1998 | ||
Nơi sinh | Karamürsel, Thổ Nhĩ Kỳ | ||
Chiều cao | 1,90 m[2] | ||
Vị trí | Trung vệ | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Al-Ahli | ||
Số áo | 28 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2009–2011 | Karamürsel Idmanyurduspor | ||
2011–2016 | Fenerbahçe | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2016–2017 | Alcanenense | 12 | (0) |
2017 | → Sporting CP B (mượn) | 3 | (0) |
2017–2019 | Sporting CP B | 26 | (0) |
2018–2019 | → Alanyaspor (mượn) | 16 | (1) |
2019 | → Sassuolo (mượn) | 14 | (2) |
2019–2022 | Juventus | 21 | (1) |
2021–2022 | → Atalanta (mượn) | 28 | (1) |
2022–2023 | Atalanta | 28 | (1) |
2023– | Al-Ahli | 20 | (1) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2014–2015 | U-17 Thổ Nhĩ Kỳ | 7 | (1) |
2015 | U-18 Thổ Nhĩ Kỳ | 2 | (0) |
2015–2016 | U-19 Thổ Nhĩ Kỳ | 10 | (1) |
2018 | U-20 Thổ Nhĩ Kỳ | 9 | (0) |
2016–2018 | U-21 Thổ Nhĩ Kỳ | 13 | (0) |
2018– | Thổ Nhĩ Kỳ | 48 | (4) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 23:13, 27 tháng 5 năm 2024 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 22:55, 2 tháng 7 năm 2024 (UTC) |
Merih Demiral (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Al-Ahli tại Saudi Pro League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Trước khi Demiral chào đời, cha mẹ của Demiral đã di cư đến Kocaeli từ Arhavi ở tỉnh Artvin.[3] Demiral sinh ngày 5 tháng 3 năm 1998 ở đô thị Karamürsel, tỉnh Kocaeli, Thổ Nhĩ Kỳ trong một gia đình với bố là một công nhân sản xuất bê tông và lớn lên cùng với anh trai Fatih. Vào năm 2009, cha anh đăng ký anh vào trường bóng đá địa phương.[3] Ở tuổi 14, Demiral mất mẹ Fatma trong một vụ tai nạn giao thông vào ngày 28 tháng 12 năm 2012 và trở thành trẻ bán mồ côi.[3]
Vào ngày 30 tháng 1 năm 2019, Demiral gia nhập câu lạc bộ Sassuolo tại Serie A theo dạng cho mượn với nghĩa vụ mua đứt.[4] Anh ra mắt Serie A và câu lạc bộ trong trận hòa 1–1 trên sân nhà trước SPAL vào ngày 24 tháng 2. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho cả câu lạc bộ và Serie A với một cú đúp trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Chievo vào ngày 4 tháng 4.
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2021, Atalanta ký hợp đồng với Demiral từ Juventus theo dạng cho mượn kèm theo tùy chọn mua.[5] Trong mùa giải 2021–22, anh ra sân tổng cộng 42 lần, ghi hai bàn thắng và cung cấp ba đường kiến tạo trên mọi đấu trường. Atalanta thực hiện quyền mua đứt vào ngày 17 tháng 6 năm 2022 với mức phí 20 triệu euro.[6]
Vào ngày 19 tháng 8 năm 2023, Demiral gia nhập câu lạc bộ Al-Ahli tại Saudi Pro League theo hợp đồng có thời hạn 3 năm.[7]
Demiral kết hôn với người mẫu người Albania Heidi Lushtaku đến từ Thụy Sĩ năm 2021. Họ có một đứa con trai kể từ tháng 4 năm 2022.[8]
Demiral từng đại diện cho Thổ Nhĩ Kỳ ở các cấp độ trẻ, bao gồm các đội U-17 và U-19. Anh ra mắt đội tuyển quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 20 tháng 11 năm 2018 trong trận giao hữu với Ukraina khi vào sân thay người ở phút thứ 85 cho Mert Müldür.[9] Vào ngày 11 tháng 6 năm 2021, Demiral vô tình đá phản lưới nhà trong trận thua 0–3 trước Ý trong trận mở màn của UEFA Euro 2020 và đây là lần đầu tiên trong lịch sử giải đấu một bàn phản lưới nhà đã mở tỷ số của một trận đấu.[10]
Vào ngày 7 tháng 6 năm 2024, anh được chọn vào đội hình 26 người tham dự UEFA Euro 2024.[11] Trong trận chiến thắng 2–1 trước Áo ở vòng 16 đội, anh được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu khi ghi một cú đúp để giúp đất nước của anh giành quyền vào tứ kết.[12] Bàn thắng đầu tiên của anh trong trận đó được ghi chỉ sau 57 giây của trận đấu và nó trở thành bàn thắng nhanh nhất trong một trận đấu vòng loại trực tiếp của Giải vô địch châu Âu.[13]
Vào ngày 11 tháng 10 năm 2019, sau bàn thắng của Cenk Tosun vào lưới Albania trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà ở vòng loại UEFA Euro 2020, Demiral là một trong những cầu thủ Thổ Nhĩ Kỳ đã tham gia vào màn ăn mừng bàn thắng "kiểu chào quân đội" gây tranh cãi.[14] Cùng ngày, Demiral tuyên bố công khai ủng hộ cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ vào đông bắc Syria trên Twitter. Bài đăng đó của anh được những người ủng hộ Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdoğan khen ngợi. Thế nhưng, nó cũng thu hút sự chỉ trích từ nhiều người hâm mộ bóng đá của Juventus cũng như của các câu lạc bộ khác trên mạng xã hội.[15] Một số người đã yêu cầu câu lạc bộ thực hiện các biện pháp kỷ luật đối với các cầu thủ và những người khác thậm chí còn yêu cầu câu lạc bộ sa thải Demiral.[16]
Vào ngày 2 tháng 7 năm 2024, sau trận đấu với Áo ở Euro 2024 ở Đức, Demiral đã thể hiện kiểu chào chó sói, một kiểu chào gắn liền với chủ nghĩa dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ, chủ nghĩa Liên Thổ và tổ chức Sói Xám. Kiểu chào đó bị cấm ở Áo.[17] Tại cuộc họp báo, anh nói rằng kiểu chào đó là biểu hiện của niềm tự hào của người Thổ Nhĩ Kỳ và anh dự định sẽ làm lại nó khi có cơ hội. Ngoài những lời chỉ trích từ các chính trị gia và nhà báo, UEFA đã bắt đầu một cuộc điều tra về hành vi được cho là không phù hợp. Vào ngày 3 và 4 tháng 7 năm 2024, Thổ Nhĩ Kỳ bị Đức lần lượt triệu tập cùng với các đại sứ các quốc gia khác để thảo luận về vụ việc.[18] UEFA thông báo vào ngày 5 tháng 7 rằng Demiral bị cấm thi đấu tổng cộng hai trận vì không tuân thủ các nguyên tắc ứng xử chung và vi phạm các quy tắc cơ bản về ứng xử đứng đắn.[19]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp quốc gia[a] | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Alcanenense | 2016–17 | Campeonato de Portugal | 12 | 0 | 1 | 0 | — | — | 13 | 0 | ||
Sporting CP B (mượn) | 2016–17 | LigaPro | 3 | 0 | — | — | — | 3 | 0 | |||
Sporting CP B | 2017–18 | LigaPro | 26 | 0 | 0 | 0 | — | — | 26 | 0 | ||
Tổng cộng | 29 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 29 | 0 | ||
Sporting CP | 2017–18 | Primeira Liga | — | 1 | 0 | — | — | 1 | 0 | |||
Alanyaspor (mượn) | 2018–19 | Süper Lig | 16 | 1 | 4 | 0 | — | — | 20 | 1 | ||
Sassuolo (mượn) | 2018–19 | Serie A | 14 | 2 | — | — | — | 14 | 2 | |||
Juventus | 2019–20 | Serie A | 6 | 1 | 0 | 0 | 1[b] | 0 | 1[c] | 0 | 8 | 1 |
2020–21 | Serie A | 15 | 0 | 4 | 0 | 5[b] | 0 | 0 | 0 | 24 | 0 | |
Tổng cộng | 21 | 1 | 4 | 0 | 6 | 0 | 1 | 0 | 32 | 1 | ||
Atalanta (mượn) | 2021–22 | Serie A | 28 | 1 | 2 | 0 | 12[d] | 1 | — | 42 | 2 | |
Atalanta | 2022–23 | Serie A | 28 | 1 | 0 | 0 | — | — | 28 | 1 | ||
Tổng cộng | 56 | 2 | 2 | 0 | 12 | 1 | 0 | 0 | 70 | 3 | ||
Al-Ahli | 2023–24 | Saudi Pro League | 20 | 1 | 1 | 0 | — | — | 21 | 1 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 168 | 7 | 13 | 0 | 18 | 1 | 1 | 0 | 200 | 8 |
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Thổ Nhĩ Kỳ | 2018 | 1 | 0 |
2019 | 11 | 0 | |
2020 | 7 | 0 | |
2021 | 12 | 1 | |
2022 | 4 | 1 | |
2023 | 6 | 0 | |
2024 | 7 | 2 | |
Tổng cộng | 48 | 4 |
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Tỷ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 13 tháng 11 năm 2021 | Sân vận động Başakşehir Fatih Terim, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ | Gibraltar | 4–0 | 6–0 | Vòng loại FIFA World Cup 2022 |
2 | 4 tháng 6 năm 2022 | Quần đảo Faroe | 4–0 | 4–0 | UEFA Nations League 2022–23 | |
3 | 2 tháng 7 năm 2024 | Red Bull Arena, Leipzig, Đức | Áo | 1–0 | 2–1 | UEFA Euro 2024 |
4 | 2–0 |
Juventus
U-20 Thổ Nhĩ Kỳ