Mimi Coertse

Mimi Coertse
Mimi Coertse ở Vienna
SinhMaria Sophia Coertse
(1932-06-12)12 tháng 6 năm 1932
Durban, Nam Phi
Nghề nghiệpCa sĩ hát Opera Soprano)
Phối ngẫuDawid Engela (1953-57)
Diego Brighi (1965-69)
Werner Ackerman (1970-1994)
Con cái2

Mimi Coertse (sinh ngày 12 tháng 6 năm 1932) là một giọng nữ cao của Nam Phi.

Cuộc đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Coertse, sinh ra ở Durban, học tại trường trung học dành cho nữ sinh Helpmekaar ở Johannesburg. Cô bắt đầu học hát ở Nam Phi vào năm 1949.[1] Huấn luyện viên thanh nhạc đầu tiên của cô ở Johannesburg là Aimee Parkerson.[2]

Buổi biểu diễn đầu tiên của cô tại Nam Phi là hát vai  Messiah trong vở Handel tại Tòa thị chính Johannesburg vào ngày 11 tháng 12 năm 1951. Vào tháng 7 năm 1953, cô kết hôn với nhà phát thanh và nhà soạn nhạc Dawid Engela. Cô rời Nam Phi vào tháng 9 năm 1953 để đến London, và sau đó đi qua Hague đến Vienna. Tháng 1 năm 1954, cô bắt đầu tập luyện với Maria Hittorff và Josef Witt.

Sự nghiệp hát Opera

[sửa | sửa mã nguồn]

Coertse ra mắt vào tháng 1 năm 1955 với vai diễn "cô gái hoa đầu tiên" (the first flower girl) trong vở Parsifal của Wagner tại Teatro San Carlo ở Naples. Cô cũng hát trong vở Basle tại Teatro San Carlo. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1956, cô xuất hiện lần đầu tại nhà hát Vienna State Opera với vai Nữ hoàng bóng đêm trong vở Die Zauberflöte của Mozart và gắn bó với nhà hát Vienna State Opera cho đến năm 1978. Lần ra mắt đầu tiên của Covent Garden là vào năm 1956.

Coertse hát phần giọng nữ cao trong vở Matthäus-Passion của Bach cùng với sự tham gia của Fritz Wunderlich. Năm 1958, Coertse và Fritz Wunderlich một lần nữa làm việc cùng nhau tại lễ hội Aix-en-Provence ở Die Zauberflöte.

Năm 1965, cô hát vai Konstanze trong vở Die Entführung aus dem Serail tại Vienna State Opera, nơi cũng có sự tham gia của Fritz Wunderlich trong vai Belmonte. Năm 1966, Mimi được vinh danh bởi Tổng thống Áo với danh hiệu Österreichischer Kammersänger, trong mười năm làm việc với tư cách là thành viên thường trực tại Nhà hát Quốc gia Vienna.

Hôn nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Mimi đã kết hôn ba lần. Cuộc hôn nhân đầu tiên của cô là nhà soạn nhạc người Nam Phi Dawid Engela vào năm 1953 nhưng cuộc hôn nhân kết thúc vào năm 1957. Cuộc hôn nhân thứ hai của cô là với người doanh nhân người Ý Diego Brighi vào năm 1965 và ly hôn năm 1969.  Cuộc kết hôn thứ ba của cô là với doanh nhân Werner Ackerman vào năm 1970 và kéo dài cho đến năm 1994. Sau 5 lần sảy thai, cô đã nhận nuôi một đứa con trai và con gái, Walter và Mia.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ H. Rosenthal and J. Warrack, Concise Oxford Dictionary of Opera (OUP, London 1974 printing).
  2. ^ 'Onse' Mimi Coertse - a formidable woman”.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Chú thuật hồi chiến chương 261: Quyết Chiến Tại Tử Địa Shinjuku
Chú thuật hồi chiến chương 261: Quyết Chiến Tại Tử Địa Shinjuku
Khởi đầu chương là khung cảnh Yuuji phẫn uất đi…ê..n cuồng cấu x..é cơ thể của Sukuna, trút lên người hắn sự căm hận với quyết tâm sẽ ngh..iề..n nát trái tim hắn
Blue Period - Bộ Anime truyền động lực và cảm hứng
Blue Period - Bộ Anime truyền động lực và cảm hứng
Bộ phim kể về Yutaro - nhân vật chính, một cậu học sinh cấp 3 "học giỏi, chơi giỏi" nhưng tất cả những điều đó chỉ khiến cậu ta càng thêm trống rỗng và cảm thấy cuộc sống thật nhàm chán và vô vị
[Next Comer - Limited Banner - Awakening AG] Factor Nio/ Awaken Nio - The Puppet Emperor
[Next Comer - Limited Banner - Awakening AG] Factor Nio/ Awaken Nio - The Puppet Emperor
Nio từ chối tử thần, xoá bỏ mọi buff và debuff tồn tại trên bản thân trước đó, đồng thời hồi phục 100% HP
Quân đội Israel - Nguồn Gốc và Sức Mạnh
Quân đội Israel - Nguồn Gốc và Sức Mạnh
Đây là lời tuyên chiến đầu tiên của Israel kể từ năm 1973, tỏ rõ ý định muốn chơi tới cùng với Hamas và chắc chắn sẽ giành được chiến thắng chung cuộc.