Bài này có liệt kê các nguồn tham khảo và/hoặc liên kết ngoài, nhưng nội dung trong thân bài cần được dẫn nguồn đầy đủ bằng các chú thích trong hàng để người khác có thể kiểm chứng. (June 2014) |
Monogatari (物語 (vật ngữ)) là một dạng văn học trong văn học Nhật Bản truyền thống, một câu chuyện tường thuật dạng văn xuôi kéo dài có thể so sánh với sử thi. Monogatari được gắn chặt với các khía cạnh của truyền thống truyền miệng, và hầu hết luôn đề cập đến một câu chuyện hư cấu hoặc được tiểu thuyết hoá, kể cả khi kể lại một sự kiện lịch sử. Nhiều trong số những tác phẩm hay nhất của văn học tiểu thuyết Nhật Bản, như Truyện kể Genji và Truyện kể về nhà Heike được sáng tác ở dạng monogatari này.
Dạng văn học này trở nên nổi trội trong khoảng thế kỷ thứ 9 tới thế kỷ thứ 15, và đạt đến đỉnh cao trong khoảng thế kỷ thứ 10 và 11. Theo sách Fūyō Wakashū (1271), ít nhất 198 cuốn monogatari đã tồn tại cho tới thế kỷ 13. Trong số này, khoảng bốn mươi tác phẩm vẫn còn tồn tại.
Các thể loại được phân chia thành nhiều loại tùy thuộc vào nội dung của chúng:
Những câu chuyện với những sự kiện viễn tưởng.
Những câu chuyện được kể bằng thơ.
Những câu chuyện tưởng tượng về giới quý tộc.
Những câu chuyện về lịch sử.
Những câu chuyện về chiến tranh.
Những câu chuyện mang tính giai thoại.
Những mô phỏng giả cổ điển của những câu chuyện trước đó.
Khi văn học châu Âu và nước ngoài du nhập vào Nhật Bản, từ "monogatari" bắt đầu được sử dụng trong các tiêu đề tiếng Nhật cho các tác phẩm nước ngoài có tính chất tương tự. Chẳng hạn, Chuyện hai thành phố được biết đến như Nito Monogatari (二都物語), Nghìn lẻ một đêm là Sen'ichiya Monogatari (千一夜物語), và gần đây hơn, Chúa tể những chiếc nhẫn là Yubiwa Monogatari (指輪物語) và Giết con chim nhại là Arabama Monogatari (アラバマ物語).