Núi Ólympos

Núi Ólympos
Hình ảnh đỉnh Olympus vào ban ngày
Độ cao2.917 m (9.570 ft)[1][2]
Phần lồi2.353 m (7.720 ft)[3]
Độ cao đỉnh mẹNúi Elferkofel[3]
Danh sáchĐỉnh cực kỳ nổi bật, gọi tắt là Ultra
Vị trí
Núi Ólympos trên bản đồ Hy Lạp
Núi Ólympos
Núi Ólympos
Dãy núiThessaly và Macedonia, gần Vịnh Salonika
Tọa độ40°05′8″B 22°21′31″Đ / 40,08556°B 22,35861°Đ / 40.08556; 22.35861
Leo núi
Chinh phục lần đầuBởi những người hành hương tôn giáo hoặc các linh mục ở Antiquity.[4][5]

Những người đầu tiên trèo lên thuộc thế giới hiện đại: 2 tháng 8 năm 1913


Christos Kakkalos, Frederic Boissonnas và Daniel Baud-Bovy

Núi Ólympos (/ˈlɪmpəs, əˈlɪm-/;[6] tiếng Hy Lạp: Όλυμπος, chuyển tự Ólympos, also Ólimbos, IPA: [ˈoli(m)bos]) hay núi Olympus hoặc Óros Ólimbos, còn gọi là Núi Ô Lim, là ngọn núi cao nhất ở Hy Lạp.

Đây là một phần của khối núi Ólympos gần Vịnh Thermaic của Biển Aegea, nằm trong Dãy Ólympos trên biên giới giữa ThessalyMacedonia, giữa các đơn vị địa phương của LarissaPieria, cách Thessaloniki khoảng 80 km về phía tây nam.[7] Đỉnh Olympus có 52 đỉnh và hẻm núi sâu.[8] Đỉnh cao nhất có tên gọi Mytikas (Μύτικας Mýtikas), trong tiếng Hy Lạp nghĩa là "chiếc mũi", cao tới 2.917 mét (9.570 ft).[2]

Đây là một trong những đỉnh núi cao nhất ở châu Âu về độ nổi bật của địa hình.[9] Trong thần thoại Hy Lạp, ngọn núi Ólympos là ngôi nhà của các vị thần Hy Lạp, trên đỉnh Mytikas. Núi có sự đa dạng sinh học đặc biệt và hệ thực vật phong phú. Đây là Công viên Quốc gia đầu tiên ở Hy Lạp, kể từ năm 1938. Đây cũng là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.[2]

Mỗi năm có hàng ngàn du khách đến chiêm ngưỡng hệ động thực vật, tham quan các sườn núi và leo lên các đỉnh núi. Những nơi trú ẩn có tổ chức trên núi và nhiều tuyến đường leo núi khác nhau đều có sẵn. Điểm xuất phát thông thường để leo lên ngọn núi Ólympos là từ thị trấn Litochoro, ở chân núi phía đông, cách Thessaloniki 100 km (62 mi).

Núi Ólympos nằm tại tọa độ 40°05′B 22°21′Đ / 40,083°B 22,35°Đ / 40.083; 22.350, trong lòng Hy Lạp đại lục. Là một phần của khối núi Olympus gần Vịnh Thérmai (Thermaïkós) ở vùng Biển Aegea, nằm ở dãy Olympos ngay giữa vùng ThessalyMakedonia, nằm giữa hai tỉnh PieriaLarissa, cách Thessaloniki, thành phố lớn thứ hai của Hy Lạp, khoảng 80 km về phía Tây Nam.

Núi Ólympos đáng chú ý vì sự giàu có quần thực vật của nó với một số loài là đặc hữu. Đỉnh cao nhất trên núi Ólympos là Đỉnh Mũi Nhọn Mitikas (Mytikas, Μύτικας), trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "mũi". Mitikas là đỉnh núi cao nhất tại Hy Lạp, đứng thứ hai là Skolio (2.912 m). Các cuộc leo núi này đều bắt đầu từ thị trấn Litochoro, còn được gọi là thành phố của các thánh thần do vị trí của nó tại chân núi.

Hình thái

[sửa | sửa mã nguồn]
Núi Ô Lim được chụp ở tầng bình lưu

Nằm trong khu vực có quá trình địa chất phức tạp và lâu dài có thể thấy rõ từ hình thái của Olympus và ở khu vực vườn quốc gia. Bao gồm các hẻm núi sâu và hơn mười đỉnh núi trẻ, rất nhiều trong số đó có ngọn còn cao hơn 2.000 mét (6.600 ft), với đỉnh Aghios Antonios cao 2.815 mét (9.236 ft), Kalogeros cao 2.700 mét (8.900 ft), Toumpa cao 2.801 mét (9.190 ft) và Profitis Ilias cao 2.803 mét (9.196 ft). Tuy nhiên, chính những đỉnh núi đá ở vùng trung tâm, gần như thẳng đứng mới là điểm chính gây ấn tượng cho du khách.

Ở đường chân trời của thị trấn Litochoro khi nhìn vào ngọn núi có hình chữ V nằm giữa hai đỉnh và gần như là độ cao bằng nhau. Phía bên trái là đỉnh Mũi Nhọn (Mytikas) hay Bách Thần (Pantheon). Đây là đỉnh núi cao nhất ở Hy Lạp.

Còn phía bên phải là đỉnh Stefani (hay Thronos Dios) Thiên Ngai của Zeus cao 2.902 mét (9.521 ft), là đỉnh núi ấn tượng nhất với nền địa hình dốc đứng với đỉnh cao 200 mét là thách thức lớn nhất đối với các nhà leo núi.

Ở phía Nam, Skolio (40°04′58″B 22°21′26″Đ / 40,0829°B 22,3571°Đ / 40.0829; 22.3571) đỉnh phụ cao thứ hai - 2.911 mét (9.551 ft) hoàn thành một vòng cung khoảng 200 độ, với các sườn dốc hình thành ở phía tây, giống như một bức tường, một hang động biểu diễn vách đá ấn tượng, 700 mét (2.300 ft) sâu và 1.000 mét (3.300 ft) chu vi, 'Megala Kazania'. Ở phía đông của các đỉnh núi cao, các sườn dốc tạo thành vùng giống như các nếp gấp song song, 'Zonaria'. Ngay cả những điểm hẹp hơn và dốc hơn, 'Loukia', dẫn đến đỉnh cao.

Đỉnh Profitis Ilias và đoàn Christos Kakalos

Ở phía bắc, giữa Stefani và Profitis Ilias, kéo dài Cao nguyên Muses, ở độ cao 2.550 mét (8.370 ft), trong khi xa hơn về phía nam, gần như ở trung tâm của khối núi, mở rộng vùng lãnh nguyên núi cao của Bara, ở độ cao 2.350 mét (7.710 ft). Olympus có nhiều khe núi và mòng biển. Các khe núi dễ phân biệt nhất là Mavrologos-Enipeas (14 km) và Mavratzas-Sparmos (13 km) gần Bara và 'cắt' khối núi thành hai phần hình bầu dục.

Ở chân đồi phía nam, hẻm núi lớn Ziliana, dài 13 km, bao gồm một giới hạn tự nhiên ngăn cách ngọn núi với Hạ Ô Lim. Ngoài ra còn có nhiều vách đá và một số hang động, thậm chí ngày nay vẫn chưa được khám phá. Hình dạng và cách bố trí của đá tạo điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của nhiều suối, chủ yếu ở độ cao thấp hơn 2.000 m, của các hồ và suối nhỏ theo mùa và của một con sông nhỏ, Enipeas, với các suối ở địa điểm Prionia và cửa sông của nó ở Biển Aegean

Tên gọi và Thần thoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ nguyên học và ý nghĩa của từ Όλυμπος (Ólympos) không được rõ ràng, và nó có thể có nguồn gốc trong ngôn ngữ tiền Ấn-Âu hay ngôn ngữ Hy Lạp cổ. Trong sử thi Odyssey 6.42 có nhắc đến Οὔλυμπος (Oulumpos), được coi là nơi ngự trị của các vị thần (và không được xác định với bất kỳ đỉnh núi cụ thể nào). Sử thi của Homeros Iliad 5.754 và Odyssey 20.103 cũng sử dụng từ οὔλυμπος làm danh từ chung, như một từ đồng nghĩa của οὐρανός (ouranos) "bầu trời". Trong lịch sử, Núi Olympos trước kia được gọi là Núi Belus[a], theo Iliad 1.591, nơi ngự trị của các vị thần được gọi là βηλός θεσπεσίος (Vilós Thesspesíos) "ngưỡng cửa thiên đàng".

Thần thoại

[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm: Tôn giáo Hy Lạp cổ đại, Thần thoại Hy LạpMười hai vị thần trên đỉnh Olympus.
Đường lên đỉnh núi Olympus

Trong Tôn giáo Hy Lạp cổthần thoại Hy Lạp[10], núi Ólympos là nhà của Mười hai vị thần Olympus, các vị thần chính trong đền bách thần của người Hy Lạp. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng nó được xây dựng bằng các lâu đài pha lê mà trong đó các vị thần, như thần Zeus (chúa tể của các vị thần), đã sinh sống. Trong thần thoại Hy Lạp người ta cũng kể rằng sau khi nữ thần Gaia (nữ thần mẹ đất) sinh ra các thần khổng lồ (Titan) (các vị thần tổ tiên của các thần) thì họ đã dùng các ngọn núi ở Hy Lạp làm ngai vàng của họ do họ quá khổng lồ, và Cronus (vị thần Titan trẻ nhất và hùng mạnh nhất) đã ngồi trên núi Olympus.

Cao nguyên Mousa, và Stefani (thiên ngai của Zeus)

Pieria, chân đỉnh núi phía Bắc, có câu chuyện về những nàng Mousa, con gái của thần Zeus và nữ Titan của ký ức Mnemosyne.[11]

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Với nền địa hình cao hiểm trở có thể thấy bằng mắt thường cùng với yếu tố thần thoại, những ngọn núi cao nhất địa phương có xu hướng được đặt tên như vầy; và vô số đỉnh núi có người Hy Lạp đều có tên là Olumpos vào thời cổ đại, như ngọn núi ở Mysia (Núi Uludağ), Laconia (Núi Lykaion), Lycia (Núi Tahtalı), Olympus ở Síp, Attica, Euboea, Ionia (Núi Nif) và Lesbos, và vì ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp sau thời Phục Hưng nên Olympus là một tên gọi núi khá phổ biến trong thế giới phương Tây nên ta cũng có núi OlympusUtah, núi Olympus tại bang Washington và nhiều ngọn núi trùng tên khác.

Hy Lạp, Núi Olympos ở Thessaly là ngọn núi cao nhất trong các lãnh thổ được định cư bởi người Hy Lạp và có thể tượng trưng cho nơi ở của các vị thần khi mà Herodotus (1.56) vào thế kỷ 5 TCN đã chọn ngọn núi này.

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thảm thực vật

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách 23 loài thực vật đặc hữu của địa phương trên đỉnh Olympus từ Cơ quan Quản lý Vườn Quốc gia Olympus

Động vật

[sửa | sửa mã nguồn]
Một con Kỳ giông trên hẻm Enipea
  1. ^ Mount Olympus | mountain, Greece | Britannica
  2. ^ a b c NASA (7 tháng 7 năm 2005). “Mount Olympus”. Olympus National Park. Management Agency of Olympus National Park. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
  3. ^ a b Bản mẫu:Cite pb
  4. ^ “Two Greek Scientists Discover Shrine to Zeus on Mt. Olympus; Pottery and Other Artifacts Found on the Site Believed to Date From 400 B.C.”. New York Times. 12 tháng 11 năm 1967.
  5. ^ Sandbach, F.H. (1987). Plutarch's Moralia, Volume XV. Nhà xuất bản Đại học Harvard. tr. 351.
  6. ^ Jones, Daniel (2003) [1917]. Roach, Peter; Hartmann, James; Setter, Jane (biên tập). English Pronouncing Dictionary. Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge. ISBN 3-12-539683-2.
  7. ^ “Mount Olympus”. Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  8. ^ Kakissis, Joanna (17 tháng 7 năm 2004). “Summit of the gods”. The Boston Globe. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2015.
  9. ^ “Europe Ultra-Prominences”. peaklist.org. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2010.
  10. ^ Wilson, Nigel (ngày 31 tháng 10 năm 2005). Encyclopedia of Ancient Greece. Abingdon, England: Routledge. tr. 516.
  11. ^ “Greek Legends and Myths”.[bởi ai?]Bản mẫu:Year needed

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Trong nền văn học cận đại, tên gọi của Belus, gắn liền vị vua trong truyền thuyết Assyria (từ tiếng Akkad bel "chúa"); see e.g. Algernon Herbert, Nimrod; a discourse upon certain passages of history and fable (1826) p. 67.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Con mèo trong văn hóa lịch sử Việt Nam
Con mèo trong văn hóa lịch sử Việt Nam
Tết là lúc mọi người có những khoảng thời gian quý giá quây quần bên gia đình và cùng nhau tìm lại những giá trị lâu đời của dân tộc
Review game Kena: Bridge of Spirits
Review game Kena: Bridge of Spirits
Kena: Bridge of Spirits là một tựa game indie được phát triển bởi một studio Mỹ mang tên Ember Lab - trước đây là một hãng chuyên làm phim hoạt hình 3D và đã rất thành công với phim ngắn chuyển thể từ tựa game huyền thoại Zelda
[Review] Wonder Woman 1984: Nữ quyền, Sắc tộc và Con người
[Review] Wonder Woman 1984: Nữ quyền, Sắc tộc và Con người
Bối cảnh diễn ra vào năm 1984 thời điểm bùng nổ của truyền thông, của những bản nhạc disco bắt tai và môn thể dục nhịp điệu cùng phòng gym luôn đầy ắp những nam thanh nữ tú
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
Ngay từ đầu mục đích của Jesper chỉ là lợi dụng việc những đứa trẻ luôn thích đồ chơi, dụ dỗ chúng viết thư cho ông già Noel còn mình thì nhanh chóng đạt được mục tiêu bố đề ra và trở lại cuộc sống vô lo vô nghĩ ngày nào