Naltrexone, được bán dưới tên thương hiệu ReVia và Vivitrol với các thương hiệu khác, là một loại thuốc chủ yếu được sử dụng để quản lý sự phụ thuộc vào rượu hoặc opioid.[1] Một người phụ thuộc opioid không nên nhận naltrexone trước khi cai nghiện.[1] Thuốc này được uống qua miệng hoặc tiêm cơ bắp.[1] Hiệu ứng bắt đầu trong vòng 30 phút.[1] Tuy nhiên, việc giảm ham muốn đối với opioid có thể mất vài tuần.[1]
Naltrexone được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1965 và được chấp thuận cho sử dụng y tế tại Hoa Kỳ vào năm 1984.[1][3] Tính đến năm 2017, chi phí bán buôn máy tính bảng là khoảng 0,74 USD mỗi ngày tại Mỹ.[4][5] Các mũi tiêm phóng thích kéo dài có giá khoảng $ 1,267 mỗi tháng ($ 41,20 mỗi ngày).[5] Naltrexone, như bupropion/naltrexone, cũng được sử dụng để điều trị béo phì.[6]
Naltrexone đã được nghiên cứu tốt nhất như là một thuốc điều trị chứng nghiện rượu.[7] Naltrexone đã được chứng minh là làm giảm số lượng và tần suất uống.[8] Nó không làm thay đổi tỷ lệ người uống rượu.[9] Lợi ích tổng thể của nó đã được mô tả là "khiêm tốn".[10]
Acamprosate có thể hoạt động tốt hơn naltrexone nhằm loại bỏ việc uống rượu, trong khi naltrexone có thể làm giảm ham muốn rượu ở mức độ lớn hơn.[11]
Phương pháp Sinclair là phương pháp sử dụng chất đối kháng opioid như naltrexone để điều trị chứng nghiện rượu. Người bệnh dùng thuốc khoảng một giờ (và chỉ sau đó) trước khi uống để tránh tác dụng phụ phát sinh từ việc sử dụng mãn tính.[12][13] Chất đối kháng opioid ngăn chặn tác dụng củng cố tích cực của rượu và cho phép người bệnh dừng hoặc giảm uống rượu.[13]
Naltrexone tiêm với tác dụng dài làm giảm việc sử dụng heroin nhiều hơn là giả dược.[14] Nó có lợi ích hơn methadone và buprenorphin ở chỗ nó không phải là thuốc có hạn chế.[14] Nó có thể làm giảm cảm giác thèm thuốc opioid sau một vài tuần và giảm nguy cơ quá liều.[1][15] Nó được tiêm vào cơ thể một lần mỗi tháng và có sự tuân thủ tốt hơn so với công thức uống.[16]
^Tran TH, Griffin BL, Stone RH, Vest KM, Todd TJ (tháng 7 năm 2017). “Methadone, Buprenorphine, and Naltrexone for the Treatment of Opioid Use Disorder in Pregnant Women”. Pharmacotherapy. 37 (7): 824–839. doi:10.1002/phar.1958. PMID28543191.
^“Naltrexone”. ATC/DDD Index. WHO Collaborating Centre for Drug Statistics Methodology. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2016. DDD... 50 mg
^ ab“NADAC as of 2017-11-29”. Centers for Medicare and Medicaid Services (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
^Rösner S, Hackl-Herrwerth A, Leucht S, Vecchi S, Srisurapanont M, Soyka M (tháng 12 năm 2010). “Opioid antagonists for alcohol dependence”. The Cochrane Database of Systematic Reviews (12): CD001867. doi:10.1002/14651858.CD001867.pub2. PMID21154349.
^Garbutt JC (2010). “Efficacy and tolerability of naltrexone in the management of alcohol dependence”. Current Pharmaceutical Design. 16 (19): 2091–7. doi:10.2174/138161210791516459. PMID20482515.
^ abSinclair JD (2001). “Evidence about the use of naltrexone and for different ways of using it in the treatment of alcoholism”. Alcohol and Alcoholism. 36 (1): 2–10. doi:10.1093/alcalc/36.1.2. PMID11139409.
^ abSharma A, Kelly SM, Mitchell SG, Gryczynski J, O'Grady KE, Schwartz RP (tháng 6 năm 2017). “Update on Barriers to Pharmacotherapy for Opioid Use Disorders”. Current Psychiatry Reports. 19 (6): 35. doi:10.1007/s11920-017-0783-9. PMID28526967.