Nibelungenlied

Trang đầu tiên của Nibelungenlied từ Bản thảo C (k.   1230)

Nibelungenlied (Der Nibelunge liet hoặc Der Nibelunge nôt) là một sử thi được viết vào khoảng năm 1200 bằng tiếng Đức Cao Trung.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thi nhân ẩn danh của nó có khả năng đến từ vùng Passau. Nibelungenlied được dựa trên một truyền thống truyền miệng có một số nguồn gốc của nó trong các sự kiện và cá nhân lịch sử của thế kỷ 5 và 6 và lan rộng ra hầu hết các nước châu Âu nói tiếng Đức. Song song với bài thơ Đức từ Scandinavia được tìm thấy đặc biệt là trong các vị anh hùng của Thơ ca Edda và trong Völsunga saga.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài thơ này được chia thành hai phần: trong phần đầu tiên, Siegfried đến Worms để có được hôn nhân với công chúa Burgundi Kriemhild từ anh trai của cô là vua Gundahar. Gunther đồng ý cho Siegfried kết hôn với Kriemhild nếu Siegfried giúp Gunther có được nữ hoàng chiến binh Brünhild làm vợ. Siegfried làm điều này và kết hôn với Kriemhild; Tuy nhiên Brünhild và Kriemhild trở thành đối thủ, cuối cùng dẫn đến việc Siegfried bị vua Burgundian chư hầu Hagen giết chết với sự tham gia của Gunther. Trong phần thứ hai, góa phụ Kriemhild kết hôn với Etzel, vua của người Hun. Sau đó, cô mời anh trai và quần thần đến thăm vương quốc của Etzel với ý định giết Hagen. Sự trả thù của cô đã dẫn đến cái chết của tất cả những người Burgundy đã đến cùng Etzel cũng như sự hủy diệt vương quốc của Etzel và cái chết của chính Kriemhild.

Ảnh hưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Nibelungenlied là anh hùng ca đầu tiên được viết lại ở Đức, giúp các nhà nghiên cứu tìm ra một thể loại thơ anh hùng viết lớn hơn. Bi kịch của bài thơ dường như đã làm các khán giả thời trung cổ của nó khó chịu, và phần tiếp theo đã sớm được viết tiếp, với tên là Nibelungenklage, với nội dung làm cho bi kịch không phải là cuối cùng. Bài thơ đã bị lãng quên sau khoảng năm 1500, nhưng được phát hiện lại vào năm 1755. Được mệnh danh là " Iliad của Đức", Nibelungenlied bắt đầu một cuộc sống mới như là một sử thi quốc gia của Đức. Bài thơ đã được sử dụng cho mục đích tăng cường tính dân tộc và được sử dụng nhiều trong tuyên truyền chống dân chủ, phản động và quan điểm Quốc gia-Xã hội chủ nghĩa trước và trong Thế chiến thứ hai. Di sản của nó ngày nay được thấy rõ nhất trong chu kỳ hoạt động của Richard Wagner Der Ring des Nibelungen, tuy nhiên, chủ yếu dựa trên các nguồn Bắc Âu cũ. Năm 2009, ba bản thảo chính của Nibelungenlied [1] đã được ghi vào Di sản tư liệu thế giới của UNESCO vì ý nghĩa lịch sử của chúng.[2] Nó được gọi là "một trong những tác phẩm ấn tượng nhất và chắc chắn là mạnh mẽ nhất trong các sử thi của Đức thời Trung cổ".[3]

Cái chết của Siegfried. Nibelungenlied dạng bản thảo.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Designated as A (today in Munich, Bayerische Staatsbiblitohek), B (today in St. Gallen, Stiftsbiblitohek) and C (today in Karlsruhe, Baden State Library
  2. ^ UNESCO 2009.
  3. ^ Garland & Garland 1997.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Tooru Mutsuki trong Tokyo Ghoul
Nhân vật Tooru Mutsuki trong Tokyo Ghoul
Mucchan là nữ, sinh ra trong một gia đình như quần què, và chịu đựng thằng bố khốn nạn đánh đập bạo hành suốt cả tuổi thơ và bà mẹ
Đứa con của thời tiết (Weathering with You)
Đứa con của thời tiết (Weathering with You)
Nếu là người giàu cảm xúc, hẳn bạn sẽ nhận thấy nỗi buồn chiếm phần lớn. Điều này không có nghĩa là cuộc đời toàn điều xấu xa, tiêu cực
Kusanali không phải Thảo Thần của Sumeru
Kusanali không phải Thảo Thần của Sumeru
Thảo Thần là một kẻ đi bô bô đạo lý và sống chui trong rừng vì anh ta nghèo
7 kẻ không thể không build trong Honkai: Star Rail
7 kẻ không thể không build trong Honkai: Star Rail
Chúng ta biết đến cơ chế chính trong combat của HSR là [Phá Khiên]... Và cơ chế này thì vận hành theo nguyên tắc