Thi nhân ẩn danh của nó có khả năng đến từ vùng Passau. Nibelungenlied được dựa trên một truyền thống truyền miệng có một số nguồn gốc của nó trong các sự kiện và cá nhân lịch sử của thế kỷ 5 và 6 và lan rộng ra hầu hết các nước châu Âu nói tiếng Đức. Song song với bài thơ Đức từ Scandinavia được tìm thấy đặc biệt là trong các vị anh hùng của Thơ ca Edda và trong Völsunga saga.
Bài thơ này được chia thành hai phần: trong phần đầu tiên, Siegfried đến Worms để có được hôn nhân với công chúa Burgundi Kriemhild từ anh trai của cô là vua Gundahar. Gunther đồng ý cho Siegfried kết hôn với Kriemhild nếu Siegfried giúp Gunther có được nữ hoàng chiến binh Brünhild làm vợ. Siegfried làm điều này và kết hôn với Kriemhild; Tuy nhiên Brünhild và Kriemhild trở thành đối thủ, cuối cùng dẫn đến việc Siegfried bị vua Burgundian chư hầu Hagen giết chết với sự tham gia của Gunther. Trong phần thứ hai, góa phụ Kriemhild kết hôn với Etzel, vua của người Hun. Sau đó, cô mời anh trai và quần thần đến thăm vương quốc của Etzel với ý định giết Hagen. Sự trả thù của cô đã dẫn đến cái chết của tất cả những người Burgundy đã đến cùng Etzel cũng như sự hủy diệt vương quốc của Etzel và cái chết của chính Kriemhild.
Nibelungenlied là anh hùng ca đầu tiên được viết lại ở Đức, giúp các nhà nghiên cứu tìm ra một thể loại thơ anh hùng viết lớn hơn. Bi kịch của bài thơ dường như đã làm các khán giả thời trung cổ của nó khó chịu, và phần tiếp theo đã sớm được viết tiếp, với tên là Nibelungenklage, với nội dung làm cho bi kịch không phải là cuối cùng. Bài thơ đã bị lãng quên sau khoảng năm 1500, nhưng được phát hiện lại vào năm 1755. Được mệnh danh là " Iliad của Đức", Nibelungenlied bắt đầu một cuộc sống mới như là một sử thi quốc gia của Đức. Bài thơ đã được sử dụng cho mục đích tăng cường tính dân tộc và được sử dụng nhiều trong tuyên truyền chống dân chủ, phản động và quan điểm Quốc gia-Xã hội chủ nghĩa trước và trong Thế chiến thứ hai. Di sản của nó ngày nay được thấy rõ nhất trong chu kỳ hoạt động của Richard WagnerDer Ring des Nibelungen, tuy nhiên, chủ yếu dựa trên các nguồn Bắc Âu cũ. Năm 2009, ba bản thảo chính của Nibelungenlied[1] đã được ghi vào Di sản tư liệu thế giới của UNESCO vì ý nghĩa lịch sử của chúng.[2] Nó được gọi là "một trong những tác phẩm ấn tượng nhất và chắc chắn là mạnh mẽ nhất trong các sử thi của Đức thời Trung cổ".[3]
^Designated as A (today in Munich, Bayerische Staatsbiblitohek), B (today in St. Gallen, Stiftsbiblitohek) and C (today in Karlsruhe, Baden State Library
Curschmann M (1987). “'Nibelungenlied' und 'Klage'”. Trong Ruh K, Keil G, Schröder W (biên tập). Die deutsche Literatur des Mittelalters. Verfasserlexikon. 2. Berlin, New York: Walter De Gruyter. cols 926–969. ISBN978-3-11-022248-7.
Heusler, Andreas (1982) [1965]. Nibelungensage und Nibelungenlied. Die Stoffgechichte des Deutschen Heldenepos (ấn bản thứ 6). Darmstadt: Wissenschaftliche Buchgesellschaft. ISBN3-534-06960-9.
Các chỉ số của raiden bị hạn chế bới hiệu quả nạp rất nhiều trong khi có được chỉ số 80/180 mà vẫn đảm bảo tối thiểu 250% nạp có thể nói đó là 1 raiden build cực kì ngon