Paranthias furcifer

Paranthias furcifer
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Chi (genus)Paranthias
Loài (species)P. furcifer
Danh pháp hai phần
Paranthias furcifer
(Valenciennes, 1828)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Serranus creolus Valenciennes, 1828
    • Serranus furcifer Valenciennes, 1828
    • Corvina oxyptera DeKay, 1842
    • Centropristis nebulosus Castelnau, 1855
    • Serranus castelnaui Jordan & Eigenmann, 1890

Paranthias furcifer là một loài cá biển thuộc chi Paranthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: furca ("cái nĩa") và fero ("mang theo"), hàm ý có lẽ đề cập đến vây đuôi xẻ sâu của loài cá này.[2]

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều cá thể là kết quả tạp giao giữa P. furcifer với cá mú Cephalopholis fulva đã được ghi nhận tại Cuba,[3] Bermuda,[4] cụm đảo Trindade và Martin Vaz,[5] đảo san hô Rocas[6] và quần đảo Fernando de Noronha.[1] Những cá thể lai này từng được Felipe Poey mô tả là loài mới với các danh phápMenephorus dubiusM. punctiferus.[3]

Dựa trên kết quả phân tích trình tự DNA, Craig và Hastings (2007) đã gộp Paranthias vào danh pháp đồng nghĩa của Cephalopholis.[7] Điều này được một số nhà ngư học đồng tình, nhưng dựa trên đặc trưng hình thái thì Parenti và Randall (2020) vẫn tách biệt hai chi này.[8] Cơ sở dữ liệu trực tuyến Catalog of Fishes tính đến năm 2022 vẫn công nhận tính hợp lệ của chi Paranthias.[9]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

P. furcifer có phân bố rộng ở Đại Tây Dương. Ở bờ tây, từ bang Georgia (Hoa Kỳ) cũng như Bermuda ngoài khơi xa, P. furcifer xuất hiện dọc theo bờ đông Hoa Kỳ đến khắp vùng vịnh Méxicobiển Caribe, cũng như dọc theo bờ biển Brasil (từ bang Ceará đến bang São Paulo, bao gồm quần đảo Fernando de Noronha xa bờ); còn ở bờ tây, P. furcifer được ghi nhận từ đảo Ascension và ở Tây Phi từ quần đảo São Tomé và Príncipe đến Gabon và đảo Annobón.[9] P. furcifer cũng đã mở rộng phạm vi đến quần đảo Canaria.[10][11]

P. furcifer lần đầu được ghi nhận ở Địa Trung Hải, khi một cá thể đến được bờ biển Croatia nhờ vào một giàn khoan dầu từ vịnh México đến biển Adriatic.[12] Ghi nhận thứ hai tại vùng biển này là ngoài khơi Liban.[13]

P. furcifer ưa sống trên các rạn san hô và vùng biển có nền đáy cứng, độ sâu đến ít nhất là 128 m (thường thấy trong khoảng 10–66 m).[1]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở P. furcifer là 35 cm.[14] Cá có màu nâu đỏ, nhạt hơn ở bụng. Đốm màu đỏ cam ở phần trên của gốc vây ngực. Có 3 đốm trắng cách đều nhau nằm ở khoảng giữa đường bên và gốc vây lưng. Đốm màu vàng lục trên mỗi màng gai vây lưng, chuyển thành dải lục sẫm ở phần tia mềm.

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 17–19; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số tia vây ở vây ngực: 19–20; Số vảy đường bên: 69–77.[14]

Sinh học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của P. furcifer chủ yếu là các loài động vật giáp xác.[15]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

P. furcifer không có giá trị thương mại đáng kể trong nghề cá như tại Cuba hoặc México.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Bertoncini, A. A. & Ferreira, B. (2018). Paranthias furcifer. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T132727A42691834. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T132727A42691834.en. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei (part 5)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2022.
  3. ^ a b Smith, C. Lavett (1966). Menephorus Poey, a serranid genus based on two hybrids of Cephalopholis fulva and Paranthias furcifer, with comments on the systematic placement of Paranthias (PDF). American Museum Novitates. 2276: 1–11.
  4. ^ Bostrom, Meredith A.; Collette, Bruce B.; Luckhurst, Brian E.; Reece, Kimberly S.; Graves, John E. (2002). “Hybridization between two serranids, the coney (Cephalopholis fulva) and the creole-fish (Paranthias furcifer), at Bermuda” (PDF). Fishery Bulletin. 100 (4): 651–661. ISSN 0090-0656.
  5. ^ Pinheiro, Hudson T.; Camilato, Victor; Gasparini, João Luiz; Joyeux, Jean-Christophe (2009). “New records of fishes for Trindade-Martin Vaz oceanic insular complex, Brazil” (PDF). Zootaxa. 2298 (1): 45–54. doi:10.11646/zootaxa.2298.1.3. ISSN 1175-5334.
  6. ^ Batista, Hudson; Zill, Julie; Veras, Dráusio; Hazin, Fábio; Oliveira, Paulo; Marins, Yuri; Oliveira, Diogo; Pereira, Risonaldo; Tolotti, Mariana (2012). “New records of reef fishes (Teleostei: Perciformes) in the Rocas Atoll Biological Reserve, off northeastern Brazil” (PDF). Check List. 8 (3): 584–588. doi:10.15560/8.3.584. ISSN 1809-127X.
  7. ^ Craig, Matthew T.; Hastings, Philip A. (2007). “A molecular phylogeny of the groupers of the subfamily Epinephelinae (Serranidae) with a revised classification of the Epinephelini” (PDF). Ichthyological Research. 54: 1–17. doi:10.1007/s10228-006-0367-x. ISSN 1616-3915.
  8. ^ Parenti, Paolo; Randall, John E. (2020). “An annotated checklist of the fishes of the family Serranidae of the world with description of two new related families of fishes”. FishTaxa. 15: 91. ISSN 2458-942X.
  9. ^ a b R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Serranus furcifer. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2022.
  10. ^ Triay-Portella, R.; Pajuelo, J. G.; Manent, P.; Espino, F.; Ruiz-Díaz, R.; Lorenzo, J. M.; González, J. A. (2015). “New records of non-indigenous fishes (Perciformes and Tetraodontiformes) from the Canary Islands (north-eastern Atlantic)”. Cybium. 39 (3): 163–174. doi:10.26028/cybium/2015-393-001.
  11. ^ González-Lorenzo, G.; González-Jiménez, J. F.; González, J. A. (2021). “Review of the family Serranidae (Perciformes) from the Canary Islands (eastern-central Atlantic), with the first records of Serranus hepatus and Epinephelus aeneus”. Cybium. 45 (2): 141–154. doi:10.26028/cybium/2021-452-006.
  12. ^ Dulčić, J.; Dragičević, B. (2013). “Paranthias furcifer (Perciformes: Serranidae), a new alien fish in the Mediterranean Sea”. Journal of Fish Biology. 82 (1): 332–337. doi:10.1111/j.1095-8649.2012.03462.x. PMID 23331154.
  13. ^ F. Crocetta và cộng sự (2015). “New Mediterranean Biodiversity Records (October 2015)”. Mediterranean Marine Science. 16 (3): 682–702. doi:10.12681/mms.1477.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  14. ^ a b Phillip C. Heemstra & John E. Randall (1993). “Paranthias” (PDF). Vol.16. Groupers of the world (Family Serranidae, Subfamily Epinephelinae). Roma: FAO. tr. 284–285. ISBN 92-5-103125-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  15. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Paranthias furcifer trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan