Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: furca ("cái nĩa") và fero ("mang theo"), hàm ý có lẽ đề cập đến vây đuôi xẻ sâu của loài cá này.[2]
Dựa trên kết quả phân tích trình tự DNA, Craig và Hastings (2007) đã gộp Paranthias vào danh pháp đồng nghĩa của Cephalopholis.[7] Điều này được một số nhà ngư học đồng tình, nhưng dựa trên đặc trưng hình thái thì Parenti và Randall (2020) vẫn tách biệt hai chi này.[8] Cơ sở dữ liệu trực tuyến Catalog of Fishes tính đến năm 2022 vẫn công nhận tính hợp lệ của chi Paranthias.[9]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở P. furcifer là 35 cm.[14] Cá có màu nâu đỏ, nhạt hơn ở bụng. Đốm màu đỏ cam ở phần trên của gốc vây ngực. Có 3 đốm trắng cách đều nhau nằm ở khoảng giữa đường bên và gốc vây lưng. Đốm màu vàng lục trên mỗi màng gai vây lưng, chuyển thành dải lục sẫm ở phần tia mềm.
Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 17–19; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số tia vây ở vây ngực: 19–20; Số vảy đường bên: 69–77.[14]
^ abR. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Serranus furcifer”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2022.
^Triay-Portella, R.; Pajuelo, J. G.; Manent, P.; Espino, F.; Ruiz-Díaz, R.; Lorenzo, J. M.; González, J. A. (2015). “New records of non-indigenous fishes (Perciformes and Tetraodontiformes) from the Canary Islands (north-eastern Atlantic)”. Cybium. 39 (3): 163–174. doi:10.26028/cybium/2015-393-001.
^González-Lorenzo, G.; González-Jiménez, J. F.; González, J. A. (2021). “Review of the family Serranidae (Perciformes) from the Canary Islands (eastern-central Atlantic), with the first records of Serranus hepatus and Epinephelus aeneus”. Cybium. 45 (2): 141–154. doi:10.26028/cybium/2021-452-006.
^Dulčić, J.; Dragičević, B. (2013). “Paranthias furcifer (Perciformes: Serranidae), a new alien fish in the Mediterranean Sea”. Journal of Fish Biology. 82 (1): 332–337. doi:10.1111/j.1095-8649.2012.03462.x. PMID23331154.
^F. Crocetta và cộng sự (2015). “New Mediterranean Biodiversity Records (October 2015)”. Mediterranean Marine Science. 16 (3): 682–702. doi:10.12681/mms.1477.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^ abPhillip C. Heemstra & John E. Randall (1993). “Paranthias”(PDF). Vol.16. Groupers of the world (Family Serranidae, Subfamily Epinephelinae). Roma: FAO. tr. 284–285. ISBN92-5-103125-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Paranthias furcifer trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
Sự phát triển của loài người đã trải qua nhiều thời kỳ đồ đá, đồ đồng....và bây giờ là thời dầu mỏ. Khác với vàng, dầu mỏ dùng để sản xuất, tiêu thụ, hoạt động