Phạm Quý Thích 范貴適 | |
---|---|
Tên chữ | Dữ Đạo |
Tên hiệu | Lập Trai |
Biệt hiệu | Thảo Đường cư sĩ |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 25 tháng 12, 1760 |
Nơi sinh | Hoa Đường, Đường An, Thượng Hồng, Hải Dương (thôn Lương Ngọc, Thúc Kháng, Bình Giang, Hải Dương) |
Mất | 16 tháng 5, 1825 |
Giới tính | nam |
Học vấn | Tiến sĩ |
Nghề nghiệp | nhà thơ |
Quốc gia | Đại Việt |
Thời kỳ | Lê, Nguyễn |
Tác phẩm | Thảo Đường thi nguyên tập, Lập Trai văn tập, Thiên Nam long thủ liệt truyện, Chu Dịch vấn đáp toát yếu |
Phạm Quý Thích (范 貴 適, 1760-1825), tự: Dữ Đạo, hiệu: Lập Trai, biệt hiệu: Thảo Đường cư sĩ; là danh sĩ cuối đời Lê trung hưng-đầu đời Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Phạm Quý Thích sinh ngày 19 tháng 10 năm Canh Thìn (25 tháng 12 năm 1760) ở xã Hoa Đường, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Sau gia đình ông dời lên kinh đô Thăng Long, ngụ ở phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Năm Kỷ Hợi (1779), ông đỗ Tiến sĩ lúc 20 tuổi, được bổ Đông các hiệu thư, rồi lần lượt trải các chức: Hàn lâm viện hiệu thảo, Kinh Bắc đạo Giám sát ngự sử, Thiêm sai tri Công phiên.
Khi quân Tây Sơn ra Bắc, ông chạy lánh sang Kinh Bắc, sống cuộc đời ăn nhờ ở đậu, nay đây mai đó.
Đầu đời Gia Long (1802), ông được triệu đến trao cho chức Thị trung học sĩ, tước Thích An hầu. Ông cố chối từ, xin ở lại Bắc thành, được cử làm Đốc học. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau ông xin từ quan về nhà.
Năm Gia Long thứ 10 (1811), ông lại được triệu về kinh đô Huế, giao cho việc chép sử, được ít lâu, lại cáo bệnh đi về.
Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), lại có chỉ tuyên triệu lúc ông đang ốm nên từ chối được. Kể từ đó, ông chuyên việc dạy học ở quê nhà, học trò của ông rất đông, trong đó có các trí thức tên tuổi như là Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Bà Huyện Thanh Quan, Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Lữ, Chu Doãn Trí, Phạm Hội...
Ngày 29 tháng 3 năm Ất Dậu (16 tháng 5 năm 1825) Phạm Quý Thích mất, hưởng thọ 65 tuổi.
Các tác phẩm của Phạm Quý Thích đều bằng chữ Hán, gồm có:
Theo Trần Văn Giáp thì ông còn có Lập Trai tiên sinh di thi tục tập. Ngoài ra, học trò ông là Châu Doãn Trí có soạn bộ Lập Trai tiên sinh hành trạng, chép tiểu sử và phổ biến một ít thơ ông.