Phần mềm tự do nguồn mở (Tiếng Anh: Free and open-source software (Viết tắt là F/OSS, FOSS) hoặc Free/Libre/open-source software (Viết tắt là FLOSS)) là loại phần mềm được bao gồm Phần mềm tự do và Phần mềm nguồn mở. Có nghĩa là phần mềm sẽ cung cấp bất cứ người dùng quyền được sử dụng, sao chép, thay đổi và chỉnh sửa phần mềm mà không bị giới hạn[1]. Mã nguồn được chia sẻ công khai để mọi người có thể chỉnh sửa, cải tiến phần mềm theo cách tự nguyện và tự do. Điều này trái ngược với Phần mềm độc quyền, là các phần mềm được cấp phép bản quyền hạn chế và mã nguồn thường bị ẩn khỏi người dùng.
Trong bối cảnh từ "free" trong tiếng Anh bị lẫn lộn giữa "miễn phí" và "tự do", tổ chức Free Software Foundation (Viết tắt là FSF) - một tổ chức ủng hộ sáng kiến phần mềm nguồn mở - lưu ý rằng free hiểu theo nghĩa "tự do" (theo kiểu "độc lập - tự do - hạnh phúc") chứ không phải "miễn phí" (theo kiểu "miễn phí không mất tiền"), bởi "tự do" giá trị hơn "miễn phí".[1]
FOSS là một thuật ngữ bao gồm bao gồm cả phần mềm tự do và phần mềm nguồn mở, mặc dù mô tả mô hình phát triển tương tự, nhưng khác nhau về văn hóa và triết lý sử dụng làm nền tảng. Phần mềm tự do tập trung vào triết lý về các quyền tự do mà nó mang lại cho người sử dụng, trong khi đó phần mềm nguồn mở tập trung vào các cảm nhận thế mạnh của mô hình phát triển ngang hàng của nó. FOSS là một thuật ngữ có thể được sử dụng mà không thiên vị đặc biệt đối với một trong hai cách tiếp cận chính.
"Phần mềm tự do nguồn mở" (FOSS) là một thuật ngữ về phần mềm bao hàm cho cả phần mềm tự do và phần mềm nguồn mở. FOSS (Phần mềm tự do nguồn mở) cho phép người dùng kiểm tra mã nguồn và cung cấp mức độ kiểm soát cao các chức năng của phần mềm so với phần mềm độc quyền. Thuật ngữ "Free Software" trong "Free and Open-source Software" không đề cập đến chi phí tiền tệ của phần mềm, mà là liệu giấy phép có duy trì quyền tự do cho người dùng (tự do như trong bài phát biểu về quyền tự do, chứ không phải như kiểu free beer là một dạng giả định FOSS ở thế giới thật[1]). Có một số thuật ngữ và chữ viết tắt liên quan cho phần mềm tự do và nguồn mở (FOSS hoặc F/OSS), hoặc phần mềm tự do / giải phóng và nguồn mở (FLOSS hoặc F / LOSS, FLOSS là thuật ngữ ưa thích của FSF)[2].
Mặc dù gần như có sự tương đồng hoàn toàn giữa giấy phép phần mềm tự do và giấy phép phần mềm nguồn mở, có một sự bất đồng triết lý mạnh mẽ giữa những người ủng hộ hai thuật ngữ này. Thuật ngữ của FLOSS hoặc "Phần mềm tự do nguồn mở" được tạo ra để trung lập với những bất đồng về triết học giữa Free Software Foundation (FSF) và Open Source Initiative (OSI) và để có một thuật ngữ thống nhất và duy nhất có thể đề cập cả hai khái niệm[2].
Theo lời giải thích của Tổ chức Phần mềm Tự do (FSF) về sự khác biệt về triết lý giữa hai thuật ngữ phần mềm tự do và phần mềm nguồn mở: "Hai thuật ngữ mô tả gần như cùng một loại phần mềm, nhưng chúng đại diện cho các quan điểm dựa trên các giá trị khác nhau cơ bản. Nguồn mở là một phương pháp phát triển phần mềm, còn phần mềm tự do là một phong trào xã hội. Đối với phong trào phần mềm tự do, phần mềm tự do là sự bắt buộc về mặt đạo đức, tôn trọng thiết yếu cho sự tự do của người dùng. Ngược lại, triết lý về nguồn mở xem xét các vấn đề về cách tạo ra phần mềm sao cho tốt hơn - chỉ theo mặt kỹ thuật."[3]. Song song với điều này, Sáng kiến nguồn mở (OSI) coi nhiều giấy phép phần mềm tự do cũng là nguồn mở[4]. Chúng bao gồm các phiên bản mới nhất của ba giấy phép chính của FSF: GPL, Giấy phép công cộng chung ít hơn (LGPL) và Giấy phép công cộng chung GNU Affero (AGPL).
Theo định nghĩa phần mềm tự do của Richard Stallman, được thông qua bởi Tổ chức Phần mềm Tự do (FSF), định nghĩa "free software" theo mặt quyền tự do chứ không phải chi phí của phần mềm[1], và nó duy trì được Bốn quyền Tự do thiết yếu của phần mềm tự do. Ấn bản được biết đến sớm nhất về định nghĩa về ý tưởng phần mềm tự do của ông là trong ấn bản Bản tin GNU tháng 2 năm 1986 của FSF mà giờ đã ngừng xuất bản. Nguồn chuẩn cho tài liệu này nằm trong phần triết lý của trang web dự án GNU[1]. Tính đến tháng 11 năm 2019, nó được xuất bản sang 42 ngôn ngữ[1] và chưa có Tiếng Việt.
Để đáp ứng định nghĩa về "phần mềm tự do", FSF yêu cầu giấy phép của phần mềm phải tôn trọng quyền tự do dân sự / quyền con người của cái mà FSF gọi là "Bốn quyền tự do thiết yếu" của người dùng phần mềm.
Định nghĩa nguồn mở được Tổ chức phần mềm tự do sử dụng để xác định xem giấy phép phần mềm liệu có đủ điều kiện để cấp phù hiệu của tổ chức cho phần mềm mã nguồn mở đó hay không. Định nghĩa này dựa trên Nguyên tắc phần mềm miễn phí Debian, được viết và điều chỉnh chủ yếu bởi Bruce Perens[5][6]. Định nghĩa của Perens không dựa trên Bốn quyền Tự do thiết yếu của phần mềm tự do của Quỹ phần mềm tự do (FSF) vì khoảng lâu sau nó mới đăng trên trang web và Perens đã công bố trong bình luận trên diễn đàn Slashdot[7]. Perens sau đó tuyên bố rằng ông cảm thấy việc quảng bá Nguồn mở của Eric Raymond là không công bằng, làm lu mờ những nỗ lực của Tổ chức Phần mềm Tự do và tái khẳng định sự ủng hộ của ông đối với Phần mềm Tự do[8]. Trong những năm 2000 sau đó, ông đã tuyên bố về nguồn mở một lần nữa[9].
Trong những năm 1950 đến những năm 1980, người dùng máy tính thường có mã nguồn cho tất cả các chương trình họ đã sử dụng, quyền hạn và khả năng sửa đổi nó để sử dụng cho riêng họ. Phần mềm, bao gồm mã nguồn, thường được chia sẻ bởi các cá nhân sử dụng máy tính, thường là phần mềm phạm vi công cộng[10]. Hầu hết các công ty đều có mô hình kinh doanh dựa trên doanh số bán phần cứng và các phần mềm được cung cấp hoặc đóng gói chung với phần cứng một cách miễn phí[11].
Đến cuối những năm 1960, mô hình kinh doanh thịnh hành xung quanh phần mềm đã thay đổi. Ngành công nghiệp phần mềm phát triển và cạnh tranh với các sản phẩm phần mềm đi kèm của nhà sản xuất phần cứng; thay vì tài trợ cho việc phát triển phần mềm từ doanh thu phần cứng, các công ty mới này đã bán phần mềm trực tiếp. Các máy tính cho thuê thì cần các phần mềm hỗ trợ trong khi không cung cấp doanh thu cho phần mềm đấy và một số khách hàng có khả năng đáp ứng về nhu cầu phần mềm của họ thì lại không muốn tốn tiền để mua phần cứng. Trong bản cáo buộc Mỹ với IBM nộp ngày 17 tháng 1 năm 1969, chính phủ Mỹ buộc tội rằng việc cho phần mềm đi kèm là chống cạnh tranh[12]. Mặc dù một số phần mềm vẫn đang được cung cấp miễn phí và không có giấy phép hạn chế, số lượng phần mềm có phí với giấy phép hạn chế ngày càng tăng. Vào những năm 1970 và đầu những năm 1980, một số bộ phận của ngành công nghiệp phần mềm bắt đầu sử dụng các biện pháp kỹ thuật (như chỉ phân phối các bản sao nhị phân của chương trình máy tính) để ngăn người dùng máy tính có thể sử dụng các kỹ thuật đảo ngược để nghiên cứu và tùy chỉnh phần mềm mà họ đã trả tiền. Năm 1980, luật bản quyền được mở rộng cho các phần mềm máy tính ở Hoa Kỳ[13], trước đây, các phần mềm được xem như là những thứ không có bản quyền như ý tưởng, thủ tục, phương pháp, hệ thống và quy trình[14][15].
Ban đầu, phần mềm nguồn đóng không phổ biến cho đến giữa những năm 1970 đến những năm 1980, khi IBM thực hiện chính sách chỉ phân phối mã đối tượng, không còn phân phối mã nguồn vào năm 1983[16][17].
Vào năm 1983, Richard Stallman, một thành viên lâu năm của cộng đồng hacker của phòng thí nghiệm khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo MIT, công bố dự án GNU, nói rằng ông đã trở nên thất vọng với những tác động của sự thay đổi trong văn hóa của ngành công nghiệp máy tính và người dùng của nó[18]. Sự phát triển phần mềm cho hệ điều hành GNU bắt đầu vào tháng 1 năm 1984, và Quỹ Phần mềm Tự do (FSF) được thành lập vào tháng 10 năm 1985. Một bài viết phác thảo dự án và các mục tiêu của nó đã được xuất bản vào tháng 3 năm 1985 với tiêu đề Tuyên ngôn GNU. Bản tuyên ngôn bao gồm giải thích quan trọng của triết lý GNU, định nghĩa phần mềm tự do và ý tưởng copyleft. Quỹ Phần mềm Tự do đưa ra quan điểm rằng vấn đề cơ bản phần mềm tự do giải quyết là một vấn đề đạo đức - để đảm bảo người dùng phần mềm có thể thực hiện cái mà họ gọi là "Bốn quyền Tự do thiết yếu"[1].
Hạt nhân Linux, do Linus Torvalds tạo ra, được phát hành dưới dạng mã nguồn có thể sửa đổi tự do vào năm 1991. Ban đầu, Linux không được phát hành theo giấy phép phần mềm nguồn mở hay phần mềm tự do. Tuy nhiên, với phiên bản 0.12 vào tháng 2 năm 1992, ông đã cấp lại dự án theo Giấy phép Công cộng GNU[19].
FreeBSD và NetBSD (cả hai đều có nguồn gốc từ 386BSD) đã được phát hành dưới dạng phần mềm tự do khi vụ kiện giữa USL với BSDi được giải quyết tại toà án vào năm 1993. OpenBDS được phát triển đẻ nhánh từ NetBSD vào năm 1995. Cũng trong năm 1995, Máy chủ HTTP Apache, thường được gọi là Apache, đã được phát hành theo Giấy phép Apache 1.0.
Năm 1997, Eric Raymond đã xuất bản The Cathedral and the Bazaar, một bản tiểu luận phân tích phản ánh của cộng đồng hacker và các nguyên tắc phần mềm tự do. Bài tiểu luận đã nhận được sự chú ý đáng kể vào đầu năm 1998, và là một yếu tố thúc đẩy Tập đoàn Truyền thông Netscape phát hành bộ Internet Netsic Communicator nổi tiếng của họ dưới dạng phần mềm tự do. Mã nguồn này bây giờ được biết đến với cái tên Mozilla Firefox và Thunderbird.
Hành động của Netscape đã thúc đẩy Raymond và những người khác xem xét cách mang ý tưởng phần mềm tự do của Quỹ phần mềm Tự do và nhận thấy lợi ích cho ngành công nghiệp thương mại phần mềm. Họ kết luận rằng hoạt động xã hội của Quỹ phần mềm Tự do không hấp dẫn các công ty như Netscape và tìm cách đổi thương hiệu cho phong trào phần mềm tự do để nhấn mạnh tiềm năng kinh doanh của việc chia sẻ và cộng tác trên mã nguồn phần mềm. Tên mới mà họ chọn là "nguồn mở" và Bruce Perens, nhà xuất bản Tim O'Reilly, Linus Torvalds và những người khác đã nhanh chóng ký hợp đồng đổi thương hiệu. Sáng kiến nguồn mở được thành lập vào tháng 2 năm 1998 để khuyến khích việc sử dụng thuật ngữ mới và truyền bá các nguyên tắc nguồn mở[20].
Trong khi Sáng kiến Nguồn mở tìm cách khuyến khích sử dụng thuật ngữ mới và truyền bá các nguyên tắc mà nó tuân thủ, các nhà cung cấp phần mềm thương mại thấy mình ngày càng bị đe dọa bởi khái niệm phần mềm phân phối tự do và phổ biến quyền truy cập vào mã nguồn của ứng dụng. Vào năm 2001, một giám đốc điều hành của Microsoft đã tuyên bố công khai rằng "Nguồn mở là một sự hủy hoại tài sản trí tuệ. Tôi không thể tưởng tượng điều gì đó có thể tồi tệ hơn điều này đối với kinh doanh phần mềm và kinh doanh tài sản trí tuệ."[21]. Quan điểm này hoàn toàn tóm tắt các phản ứng ban đầu của một số tập đoàn phần mềm đối với FOSS. Trong nhiều năm, FOSS đã đóng một vai trò thích hợp ở bên ngoài xu hướng phát triển phần mềm tư nhân. Tuy nhiên, sự thành công của các hệ điều hành FOSS như Linux, BSD và các công ty dựa trên FOSS như Red Hat, đã thay đổi thái độ của ngành công nghiệp phần mềm và đã có một sự thay đổi đáng kể trong triết lý của công ty liên quan đến việc phát triển phần mềm nguồn mở và tự do (FOSS).
Trong lịch sử phong trào phần mềm tự do nguồn mở đã có từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước với mốc đầu tiên là hội thảo quốc gia Phần mềm mã nguồn mở lần thứ nhất tháng 12 năm 2000. Ngay từ lúc đó, đã có những nhóm Phần mềm mã nguồn mở phát triển hệ điều hành Linux Việt của Vietkey, School Net, CMC… Và sự phát triển của PMNM cũng có những sự thăng trầm qua nhiều giai đoạn.[22]
Vào ngày 02 tháng 3 năm 2004, chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 235/QĐ-TTg, phê duyệt Dự án tổng thể "Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai đoạn 2004-2008"[23]. Tuy nhiên phần mềm nguồn mở tại Việt Nam không hề phát triển như mong muốn. Theo TS Nguyễn Hồng Quang - Chủ tịch CLB Phần mềm Tự do Nguồn mở Việt Nam, mọi việc không thể như mong muốn vì nhà nước thực ra cũng không có tiền và nhận thức về PMNM ở Việt Nam khi đó cũng chưa đủ độ chín.[22]
Năm 2004, nhóm Hanoi LUG (Linux User Group) đã được hình thành với hạt nhân là Viện Tin học Pháp ngữ (IFI) mà nay là Viện Quốc tế Pháp ngữ.[22]
Vào ngày 01 tháng 3 năm 2010, chính phủ Việt Nam đã ban hành Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục[24]. Trong thông tư, danh sách các phần mềm tự do mã nguồn mở được sử dụng trong các cơ sở giáo dục bao gồm:
Tuy nhiên, phần mềm mở vẫn chưa được phổ biến lắm ở trong giáo dục, đa số các trường ở máy mà học sinh sử dụng thì việc cài đặt và sử dụng phần mềm lậu vẫn còn tràn lan. Theo TS Nguyễn Hồng Quang - Chủ tịch CLB Phần mềm Tự do Nguồn mở Việt Nam, phần mềm nguồn mở trong giáo dục ở Việt Nam chưa phát triển được bao nhiêu. Nguyên nhân vì chưa có chính sách chung của Chính phủ về Phần mềm nguồn mở nên Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chưa biết xem cần phải làm gì với phần mềm mã nguồn mở.[22]
Năm 2010, Công ty cổ phần phát triển nguồn mở Việt Nam (VINADES.,JSC hay công ty VINADES) chính thức được thành lập đầu 2010 tại Hà Nội, khi đó báo chí đã gọi VINADES.,JSC là "Công ty mã nguồn mở đầu tiên tại Việt Nam"[25]. Sản phẩm của công ty được chính phủ nhà nước, các trường học và một số doanh nghiệp trong nước sử dụng. Các sản phẩm của công ty bao gồm các CSM và các dịch vụ liên quan đến trang web.
Người dùng FOSS được hưởng lợi từ Bốn quyền tự do thiết yếu để sử dụng không hạn chế và nghiên cứu, sao chép, sửa đổi và phân phối lại phần mềm đó có hoặc không có sửa đổi. Nếu họ muốn thay đổi chức năng của phần mềm, họ có thể tuỳ ý chỉnh sửa mã nguồn, và nếu họ muốn, phân phối các phiên bản phần mềm gốc hoặc đã sửa đổi - tùy thuộc vào mô hình của phần mềm và người dùng khác - thậm chí cung cấp hoặc yêu cầu những thay đổi đó sẽ được thực hiện thông qua các bản cập nhật cho phần mềm gốc.[1][26][27][28][29]
Các nhà sản xuất phần mềm độc quyền, nguồn đóng đôi khi bị ép buộc phải xây dựng các backdoor hoặc các tính năng không mong muốn, bí mật khác vào phần mềm của họ[30][31][32]. Thay vì giao niềm tin vào các nhà cung cấp phần mềm, người dùng FOSS có thể tự kiểm tra và xác minh mã nguồn và có thể đặt niềm tin vào cộng đồng tình nguyện viên và người dùng[1][29]. Vì mã nguồn phần mềm độc quyền thường bị ẩn khỏi chế độ xem công khai, chỉ có chính các nhà cung cấp và hacker mới có thể nhận ra bất kỳ lỗ hổng nào trong đó, trong khi FOSS thì công khai càng nhiều người càng tốt để phơi bày lỗ hổng nhanh chóng.
FOSS thường miễn phí mặc dù khuyến khích việc đóng góp của người dùng. Điều này cũng cho phép người dùng kiểm tra và so sánh phần mềm tốt hơn.[29]
FOSS cho phép sự cộng tác tốt hơn giữa các bên và cá nhân khác nhau với mục tiêu phát triển phần mềm hiệu quả nhất cho người dùng và môi trường làm việc, trong khi đó đối với phần mềm độc quyền thường chỉ tạo ra lợi nhuận. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, nhiều tổ chức và cá nhân đóng góp cho các dự án FOSS nhiều hơn là dự án phần mềm độc quyền.[29] Nó đã được chứng minh rằng sự vượt trội về kỹ thuật thường là lý do chính tại sao các công ty chọn phần mềm nguồn mở.
Các phần mềm FOSS do cho phép người dùng phân phối các bản chỉnh sửa nên rất dễ bị phát triển phân nhánh. Điển hình là số bản phân phối Linux đã hơn nghìn bản[33]. Việc đó khiến cho người dùng mới rất khó lựa chọn để sử dụng bản nào, đồng thời cũng khó đồng bộ phát triển.
Theo luật Libra, mã nguồn càng công khai và kiểm tra bởi nhiều người thì các lỗi và lỗ hổng dễ bị bắt và sửa chữa nhanh chóng. Tuy nhiên, điều này không đảm bảo mức độ tham gia. Các phần mềm độc quyền thường có nhóm chuyên gia làm việc toàn thời gian để phát triển và sửa lỗi.
Đôi khi, FOSS không tương thích với phần cứng và phần mềm. Điều này thường là do các nhà sản xuất cản trở FOSS để viết phần mềm cho phần cứng của họ như không tiết lộ giao diện hoặc thông số kỹ thuật vì một số lý do như họ muốn người dùng sử dùng phần mềm độc quyền của riêng họ hay do sự hợp tác với các đối tác phần mềm khác.
Mặc dù FOSS có thể vượt trội về tính năng và tính ổn định của phần mềm so với các phần mềm độc quyền. Nhưng trong nhiều trường hợp, các phần mềm FOSS sẽ thiếu nhiều tính năng và có các lỗi đã xác định nhưng chưa được sửa khi so sánh với các phần mềm thương mại tương tự[34]. Điều này thay đổi theo từng trường hợp và thường phụ thuộc vào mức độ quan tâm và tham gia của dự án FOSS. Hơn nữa không giống như các phần mềm thương mại phải chờ nhà phát triển cập nhật, FOSS cho phép bạn tự sửa lỗi và thêm tính năng bất cứ khi nào bạn muốn nhưng dựa vào trình độ[29].
Các dự án FOSS thường có ít các nguồn lực hoặc sự tham gia cần thiết để tiếp tục phát triển so với phần mềm thương mại được hỗ trợ bởi các công ty, vì thế một số dự án FOSS đã ngừng phát triển cho dù có nhiều người sử dụng. Tuy nhiên một số dự án cũng được các công ty lớn hoặc chính phủ hợp tác phát triển.
Vì các bản phân phối hệ điều hành FOSS có thị phần người dùng cuối thấp hơn nên cũng có ít ứng dụng hơn.
Mặc dù bản quyền là cơ chế pháp lý chính mà các tác giả FOSS sử dụng để đảm bảo sự tuân thủ giấy phép cho phần mềm của họ, các cơ chế khác như luật pháp, bằng sáng chế và nhãn hiệu cũng có ý nghĩa trong cơ chế pháp lý. Để đối phó với các vấn đề pháp lý với bằng sáng chế và Đạo luật bản quyền kỹ thuật số thiên niên kỷ (DMCA), Tổ chức phần mềm tự do đã phát hành phiên bản 3 của Giấy phép công cộng GNU vào năm 2007, giải quyết rõ ràng các vấn đề về DMCA và quyền sáng chế.
Sau sự phát triển của giấy phép GNU GPLv3 năm 2007, Tổ chức phần mềm tự do (với tư cách là người giữ bản quyền của nhiều phần của hệ thống GNU) đã cập nhật nhiều giấy phép của các phần mềm GNU từ GPLv2 sang GPLv3. Mặt khác, việc áp dụng bản mới của Giấy phép công cộng đã được thảo luận rất nhiều trong hệ sinh thái FOSS[35]. Một số dự án FOSS chống lại việc thay đổi giấy phép sang GPLv3 như nhân Linux, VLC media player và Blender vẫn giữ giấy phép GPLv2.
Apple đã từng sử dụng bộ trình dịch GNU làm trình biên dịch cho Xcode IDE đã chuyển sang Clang là trình biên dịch FOSS khác nhưng theo giấy phép thừa nhận phần mềm[36], LWN suy đoán rằng Apple thúc đẩy việc thay đổi một phần bởi mong muốn tránh giấy phép GPLv3. Ngoài ra Apple cũng chuyển Samba trong bộ phần mềm của họ bằng một phần mềm thay thế độc quyền, nguồn đóng do dự án Samba chuyển sang giấy phép GPLv3[37].
Leemhuis chỉ trích sự ưu tiên của các nhà phát triển lành nghề - thay vì khắc phục các sự cố trong các ứng dụng phổ biến và môi trường desktop, họ lại tạo ra phần mềm mới, chủ yếu là dự phòng để đạt được danh tiếng và vận may.[38]
Ông cũng chỉ trích các nhà sản xuất máy tính xách tay chỉ tối ưu hóa các sản phẩm của riêng họ hoặc tạo ra cách giải quyết thay vì giúp khắc phục nguyên nhân thực tế của nhiều vấn đề với Linux trên máy tính xách tay như tiêu thụ mức điện năng không cần thiết trên sản phẩm hoặc sự thiếu trình điều khiển thiết bị.[38]
Các vụ sáp nhập đã ảnh hưởng đến phần mềm nguồn mở lớn.
Năm 2008, Sun Microsystems đã mua lại MySQL AB, chủ sở hữu của MySQL là hệ quản trị cơ sở dữ liệu tự do nguồn mở phổ biến nhất thế giới.[39]
Oracle đã lần lượt mua Sun Microsystems vào tháng 1 năm 2010, mua bản quyền, bằng sáng chế và nhãn hiệu của họ. Do đó Oracle đã trở thành chủ sở hửu của cả cơ sở dữ liệu độc quyền và cơ sở dữ liệu nguồn mở lớn nhất thế giới. Những nỗ lực của Oracle nhằm thương mại hóa cơ sở dữ liệu MySQL nguồn mở đã gây ra mối lo ngại trong cộng đồng FOSS[40]. Một phần để đáp lại sự không chắc chắn về tương lai của MySQL, cộng đồng FOSS đã chia dự án thành các dự án hệ thống cơ sở dữ liệu mới ngoài tầm kiểm soát của Oracle. Các dụ án đó bao gồm MariaDB, Percona và Drizzle.[41] Tất cả đều có tên riêng biệt; chúng là các dự án riêng biệt và không thể sử dụng tên thương hiệu MySQL[42].
Vào tháng 7 năm 2019, Microsoft công bố mở rộng hợp tác với OpenAI cùng với khoản đầu tư 1 tỷ USD[43] với thông báo mục đích ban đầu là xây dựng công nghệ siêu máy tính trí tuệ nhân tạo cho dịch vụ đám mây Azure của Microsoft. Tuy nhiên vào tháng 2 năm 2019, OpenAI vừa mới công bố rằng họ sẽ công bố mã nguồn model GPT của mình không đầy đủ với lý do rằng thuật toán này quá nguy hiểm khi nó tạo ra câu trả lời quá giống người có khả năng bị sử dụng sai mục đích[44] và vào tháng 3, họ chuyển đổi từ tổ chức phi lợi nhuận sang tổ chức vì lợi nhuận "có giới hạn" [45]. Điều này tạo ra sự nghi ngờ là OpenAI không còn đi theo định hướng ban đầu là "xây dựng giá trị cho mọi người hay vì theo cổ đông", hay nói theo cách khác là làm vì giá trị công nghệ chứ không phải theo lợi nhuận, khiến nhiều người ủng hộ ban đầu giận dữ[46]. Mọi chuyện tệ hơn khi vào tháng 3 năm 2023, OpenAI ra mắt model GPT-4 đóng nguồn hoàn toàn[47]. Vào tháng 3 năm 2024, Elon Musk - nhà đồng sáng lập OpenAI và là chủ tịch công ty Tesla khởi kiện với lý do công ty không đi đúng sứ mệnh ban đầu của mình[48]. Hiện tại vụ kiện vẫn đang tiếp diễn và chưa có kết quả.
Vào tháng 8 năm 2010, Oracle đã kiện Google, tuyên bố rằng việc sử dụng Java trong Android đã vi phạm bản quyền và bằng sáng chế của Oracle. Vụ kiện Oracle với Google đã kết thúc vào tháng 5 năm 2012, với việc phát hiện ra rằng Google không vi phạm bằng sáng chế của Oracle và thẩm phán xét xử đã phán quyết rằng cấu trúc của các API Java được Google sử dụng là không có bản quyền. Bồi thẩm đoàn nhận thấy rằng Google đã vi phạm một số lượng nhỏ các tệp được sao chép, nhưng các bên quy định rằng Google sẽ không trả tiền thiệt hại[49].
Oracle đã kháng cáo lên Tòa phúc thẩm liên bang Hoa Kỳ và Google đã đệ đơn kháng cáo với các yêu cầu chứng thực bản quyền.[50]
|url lưu trữ=
(trợ giúp)
|tên 5=
thiếu |tên 5=
(trợ giúp)
|tên=
thiếu |tên=
(trợ giúp)
|tựa đề=
tại ký tự số 34 (trợ giúp)
|tựa đề=
tại ký tự số 45 (trợ giúp)
|tên=
thiếu |tên=
(trợ giúp)