Phong trào 30 tháng 9 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Đài tưởng niệm Pancasila Sakti Các nạn nhân được tìm thấy ở Lubang Buaya. Từ trái sang phải: Tướng Ahmad Yani, Chuẩn tướng D. I. Pandjaitan, Thiếu tướng R. Suprapto, Chuẩn tướng Sutoyo Siswomiharjo, Thiếu tướng M. T. Haryono, Thiếu tướng S. Parman, Thiếu úy Pierre Tendean. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Phong trào 30 tháng 9 (phe tự xưng của Lục quân Indonesia) Các đơn vị thuộc Đội cận vệ Tổng thống Tjakrabirawa "Các đơn vị dân quân cánh tả khác nhau" ở Lubang Buaya | |||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Trung tá Untung Syamsuri Chuẩn tướng Soepardjo |
Sukarno Suharto AH Nasution Sarwo Edhie Wibowo | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
6 chỉ huy quân sự Indonesia thiệt mạng trong cuộc đảo chính, cùng với các thương vong quân sự và dân sự khác. |
Bài viết này nằm trong chủ đề Lịch sử Indonesia |
---|
Xem thêm: |
Thời tiền sử |
Những nhà nước đầu tiên |
Tarumanagara (358–669) |
Sunda (669–1579) |
Sailendra (giữa thế kỷ 8 - giữa thế kỷ 9) |
Srivijaya (cuối thế kỷ 7 - 13) |
Medang (giữa thế kỷ 8 - thế kỷ 10) |
Kediri (1049–1221) |
Singhasari (1222–1292) |
Majapahit (1293–1527) |
Các nhà nước Hồi giáo |
Sự phát triển của Hồi giáo (1200–1600) |
Vương quốc Malacca (1400–1511) |
Vương quốc Demak (1475–1518) |
Hồi quốc Aceh (1496–1903) |
Hồi quốc Banten (1526–1813) |
Hồi quốc Mataram (thế kỷ 16 - 18) |
Thời kỳ thuộc địa |
Bồ Đào Nha (1512–1850) |
Công ty Đông Ấn Hà Lan (1602–1800) |
Đông Ấn Hà Lan (1800–1942) |
Indonesia trỗi dậy |
Đánh thức Quốc gia (1899–1942) |
Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng (1942–1945) |
Tuyên ngôn độc lập (1945) |
Cách mạng Dân tộc (1945–1950) |
Thời kỳ độc lập |
Dân chủ tự do (1950–1957) |
"Dân chủ kỷ luật" (1957–1965) |
Quá độ tới "Trật tự Mới" (1965–1966) |
"Trật tự Mới" (1966–1998) |
Thời kỳ "Reformasi" (1998–nay) |
sửa |
Phong trào 30 tháng 9 (tiếng Indonesia: Gerakan 30 September, viết tắt: G30S, còn được biết đến với tên viết tắt Gestapu của Gerakan September Tiga Puluh) là một tổ chức tự xưng gồm các thành viên Lực lượng Vũ trang Quốc gia Indonesia. Vào đầu ngày 1 tháng 10 năm 1965, tổ chức này đã ám sát sáu tướng Lục quân Indonesia trong một cuộc đảo chính thất bại, dẫn đến tên gọi không chính thức nhưng chính xác hơn là Gestok, từ Gerakan Satu Oktober, hay Phong trào 1 tháng 10.[1] Cuối buổi sáng hôm đó, tổ chức này tuyên bố rằng họ đã nắm quyền kiểm soát các phương tiện và cơ quan truyền thông và đặt Tổng thống Sukarno dưới sự bảo vệ của mình. Đến cuối ngày, kế hoạch đảo chính đã thất bại ở Jakarta. Trong khi đó, ở miền trung Java xảy ra xung đột giành quyền kiểm soát một sư đoàn quân đội và một số thành phố. Vào thời điểm cuộc nổi loạn này bị dập tắt, có thêm hai sĩ quan cấp cao nữa đã thiệt mạng.
Trong những ngày và tuần sau đó, quân đội, các nhóm chính trị - xã hội và tôn giáo cáo buộc Đảng Cộng sản Indonesia (PKI) gây ra vụ đảo chính. Chẳng bao lâu sau, một cuộc thanh trừng hàng loạt đã được tiến hành, dẫn đến việc bỏ tù và giết chết những đảng viên và người có cảm tình thực sự hoặc bị nghi ngờ là Cộng sản. Dưới thời Trật tự Mới, phong trào thường được gọi là "G30S/PKI" bởi những người muốn gắn nó với PKI và thuật ngữ này đôi khi cũng được chính phủ hiện tại sử dụng.[2]
Các cuộc điều tra và thẩm vấn về mô tả của Suharto về sự kiện đã bị cản trở kéo dài ở Indonesia. Trong khi Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ban đầu tin rằng Sukarno đã dàn dựng tất cả những điều đó,[3] một số nguồn bên ngoài đã tìm thấy những mâu thuẫn và lỗ hổng trong các tuyên bố của quân đội, đặc biệt là Benedict Anderson và Ruth McVey, người đã viết Cornell Paper nhằm công kích sự kiện.[4][5]