Mái vòm Planck | |||||||
Tên | COBRAS/SAMBA | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Dạng nhiệm vụ | Tàu không gian | ||||||
Nhà đầu tư | ESA | ||||||
COSPAR ID | 2009-026B | ||||||
SATCAT no. | 34938 | ||||||
Trang web | http://www.esa.int/planck | ||||||
Thời gian nhiệm vụ | Dự kiến: >15 tháng Kết quả: 4 năm, 5 tháng, 8 ngày | ||||||
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ | |||||||
Nhà sản xuất | Thales Alenia Space | ||||||
Khối lượng phóng | 1.950 kg (4.300 lb)[1] | ||||||
Trọng tải | 205 kg (452 lb) | ||||||
Kích thước | Body: 4,20 m × 4,22 m (13,8 ft × 13,8 ft) | ||||||
Bắt đầu nhiệm vụ | |||||||
Ngày phóng | ngày 14 tháng 5 năm 2009, 13:12:02 UTC | ||||||
Tên lửa | Ariane 5 ECA | ||||||
Địa điểm phóng | Trung tâm vũ trụ Guyane, Guyane thuộc Pháp | ||||||
Nhà thầu chính | Arianespace | ||||||
Đi vào hoạt động | ngày 3 tháng 7 năm 2009 | ||||||
Kết thúc nhiệm vụ | |||||||
Cách loại bỏ | Dừng làm việc | ||||||
Dừng hoạt động | ngày 23 tháng 10 năm 2013, 12:10:27 | UTC||||||
Các tham số quỹ đạo | |||||||
Hệ quy chiếu | L2 (1.500.000 km / 930.000 mi) | ||||||
Chế độ | Lissajous | ||||||
Gương chính | |||||||
Kiểu gương | Gregorian | ||||||
Đường kính | 1,9 m × 1,5 m (6,2 ft × 4,9 ft) | ||||||
Bước sóng | 27 GHz đến 1 THz | ||||||
| |||||||
Là một phần trong loạt bài về |
Vũ trụ học vật lý |
---|
Vũ trụ sơ khai |
Thành phần · Cấu trúc |
Planck là kính thiên văn không gian phát triển và quản lý bởi Cơ quan không gian châu Âu (ESA), được thiết kế để quan sát tính phi đẳng hướng trong bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB) tại tần số vi ba và hồng ngoại ở mức phân giải và độ nhạy cao. Dự án ban đầu có mã hiệu COBRAS/SAMBA, sau đó được lấy theo tên nhà vật lý học người Đức Max Planck (1858–1947), người nhận Giải Nobel vật lý năm 1918.[2]
Tàu Planck được Thales Alenia Space lắp ráp tại Trung tâm không gian Cannes Mandelieu phóng lên vào tháng 5 năm 2009 cùng với Kính thiên văn không gian Herschel bằng tên lửa Ariane 5. Dự án nằm trong chương trình Khoa học Chân trời 2000 có mức đầu tư tầm trung (M3) của ESA. Con tàu đến quỹ đạo quay quanh điểm L2 của hệ Trái Đất - Mặt Trời vào tháng 7. Nó đã hoàn tất một vài lần quét khảo sát toàn bộ bầu trời.
Tàu Planck giúp bổ sung và nâng độ chính xác của kết quả thu được từ Tàu thăm dò vi sóng phi đẳng hướng Wilkinson (WMAP) của NASA, mà trước đó nó đã đo sự bất đẳng hướng ở mức độ phân giải góc lớn hơn với độ nhạy thấp hơn. Dữ liệu từ Planck mang lại thông tin giúp các nhà khoa học kiểm chứng một số lý thuyết về vũ trụ cũng như có được dữ liệu chính xác hơn về thành phần, cấu trúc và nguồn gốc hình thành cấu trúc lớn của vũ trụ.[3]
Tháng 10 năm 2013, khi đã hoàn thành nhiệm vụ, tàu Planck được điều khiển bay vào quỹ đạo quanh Mặt Trời nhằm tránh bất cứ sự ảnh hưởng nào đến tín hiệu thu nhận từ các phi vụ khác.