Plasmodium malariae

Plasmodium malariae là một động vật nguyên sinh ký sinh gây bệnh sốt rét ở người. Đây là một trong một số loài ký sinh trùng Plasmodium gây nhiễm trùng cho người bao gồm Plasmodium falciparumPlasmodium vivax chịu trách nhiệm cho hầu hết các bệnh nhiễm trùng sốt rét. Mặc dù được tìm thấy trên toàn thế giới, nó được gọi là "sốt rét lành tính" và gần như không nguy hiểm như được tạo ra do P. falciparum hoặc P. vivax. Nó gây ra các cơn sốt tái phát sau khoảng ba ngày (sốt quartan), dài hơn các khoảng thời gian hai ngày (tertian) của các ký sinh trùng sốt rét khác, do đó tên thay thế của nó là sốt quartansốt rét quartan.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sốt rét đã được ghi nhận từ các nền văn minh Hy Lạpvăn minh La Mã hơn 2.000 năm trước, với các kiểu sốt rét khác nhau được mô tả bởi người Hy Lạp đầu tiên.[1] Năm 1880, Alphonse Laveran phát hiện ra rằng tác nhân gây bệnh sốt rét là ký sinh trùng.[1] Công trình chi tiết của Golgi năm 1886 đã chứng minh rằng ở một số bệnh nhân có mối quan hệ giữa vòng đời 72 giờ của ký sinh trùng và kiểu lạnh và sốt ở bệnh nhân.[1] Quan sát tương tự đã được tìm thấy đối với ký sinh trùng với chu kỳ 48 giờ.[1] Golgi kết luận rằng phải có nhiều hơn một loài ký sinh trùng sốt rét chịu trách nhiệm cho các kiểu nhiễm trùng khác nhau này.[1]

Dịch tễ học

[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi năm, khoảng 500 triệu người sẽ bị nhiễm sốt rét trên toàn thế giới [2] Trong số những người bị nhiễm bệnh, khoảng hai triệu người sẽ chết vì căn bệnh này.[3] Sốt rét là do sáu loài Plasmodium: Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax, Plasmodium ovale curtisi, Plasmodium ovale wallikeri, Plasmodium malariaePlasmodium knowlesi.[1] Tại bất kỳ thời điểm nào, ước tính có khoảng 300 triệu người bị nhiễm ít nhất một trong số các loài Plasmodium này và do đó cần có sự phát triển của các phương pháp điều trị hiệu quả để giảm tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh hàng năm.[4]

Khu vực địa lý truyền bệnh sốt rét

P. malariae là một trong những loài ít được nghiên cứu nhất trong số sáu loài gây bệnh cho người, một phần vì tỷ lệ lưu hành thấp và các biểu hiện lâm sàng nhẹ hơn so với các loài khác. Bệnh này phổ biến rộng khắp châu Phi cận Sahara, phần lớn phía đông nam châu Á, Indonesia, trên nhiều hòn đảo phía tây Thái Bình Dương và trong các khu vực thuộc lưu vực sông Amazon của vùng Nam Mỹ.[3] Ở các vùng lưu hành, tỷ lệ lưu hành dao động từ dưới 4% đến hơn 20%,[5] nhưng có bằng chứng cho thấy việc nhiễm trùng P. malariae không được báo cáo đầy đủ.[6]

Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (CDC) có một ứng dụng cho phép mọi người xem các phần cụ thể của thế giới và cách họ bị ảnh hưởng bởi Plasmodium vivax và các loại ký sinh trùng Plasmodium khác. Nó có thể được tìm thấy tại liên kết sau: http://cdc.gov/malaria/map/index.html Lưu trữ 2017-07-16 tại Wayback Machine.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f Collins WE, Jeffery GM (tháng 10 năm 2007). “Plasmodium malariae: parasite and disease”. Clinical Microbiology Reviews. 20 (4): 579–92. doi:10.1128/CMR.00027-07. PMC 2176047. PMID 17934075.
  2. ^ Madabushi A, Chakraborty S, Fisher SZ, Clemente JC, Yowell C, Agbandje-McKenna M, Dame JB, Dunn BM, McKenna R (tháng 2 năm 2005). “Crystallization and preliminary X-ray analysis of the aspartic protease plasmepsin 4 from the malarial parasite Plasmodium malariae”. Acta Crystallographica Section F. 61 (Pt 2): 228–31. doi:10.1107/S1744309105001405. PMC 1952262. PMID 16511002.
  3. ^ a b Westling J, Yowell CA, Majer P, Erickson JW, Dame JB, Dunn BM (tháng 11 năm 1997). “Plasmodium falciparum, P. vivax, and P. malariae: a comparison of the active site properties of plasmepsins cloned and expressed from three different species of the malaria parasite”. Experimental Parasitology. 87 (3): 185–93. doi:10.1006/expr.1997.4225. PMID 9371083.
  4. ^ Clemente JC, Govindasamy L, Madabushi A, Fisher SZ, Moose RE, Yowell CA, Hidaka K, Kimura T, Hayashi Y, Kiso Y, Agbandje-McKenna M, Dame JB, Dunn BM, McKenna R (tháng 3 năm 2006). “Structure of the aspartic protease plasmepsin 4 from the malarial parasite Plasmodium malariae bound to an allophenylnorstatine-based inhibitor”. Acta Crystallographica Section D. 62 (Pt 3): 246–52. doi:10.1107/S0907444905041260. PMID 16510971.
  5. ^ Bruce MC, Macheso A, Galinski MR, Barnwell JW (tháng 5 năm 2007). “Characterization and application of multiple genetic markers for Plasmodium malariae”. Parasitology. 134 (Pt 5): 637–50. doi:10.1017/S0031182006001958. PMC 1868962. PMID 17140466.
  6. ^ Mohapatra PK, Prakash A, Bhattacharyya DR, Goswami BK, Ahmed A, Sarmah B, Mahanta J (tháng 7 năm 2008). “Detection & molecular confirmation of a focus of Plasmodium malariae in Arunachal Pradesh, India”. The Indian Journal of Medical Research. 128 (1): 52–6. PMID 18820359.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Ryū to Sobakasu no Hime- Belle: Rồng và công chúa tàn nhang
Về nội dung, bộ phim xoay quanh nhân vật chính là Suzu- một nữ sinh trung học mồ côi mẹ, sống cùng với ba tại một vùng thôn quê Nhật Bản
Haruka Hasebe - Classroom of the Elite
Haruka Hasebe - Classroom of the Elite
Haruka Hasebe (長は谷せ部べ 波は瑠る加か, Hasebe Haruka) là một trong những học sinh của Lớp 1-D.
Giới thiệu Cosmo the Space Dog trong MCU
Giới thiệu Cosmo the Space Dog trong MCU
Chú chó vũ trụ Cosmo cuối cùng cũng đã chính thức gia nhập đội Vệ binh dải ngân hà trong Guardians of the Galaxy
Tại sao chúng ta nên trở thành một freelancer?
Tại sao chúng ta nên trở thành một freelancer?
Freelancer là một danh từ khá phổ biến và được dùng rộng rãi trong khoảng 5 năm trở lại đây